Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2013

Suối Yến

Suối Yến, suối yến, sy

Suối Yến là dòng suối hiền hoà, uốn lượn quanh co in bóng những dãy núi chập chờn tô điểm thêm cho thiên nhiên.
Trước khi vào vãn cảnh chùa Hương, các du khách phải đến bến đục và từ đây mới xuống thuyền đi dọc theo dòng suối vào chùa. Bến đục thuyền vào, bến trò thuyền ra. Và hàng ngày, tại thắng cảnh hương sơn có trên 4.000 con thuyền tấp nập trở khách vào ra. Đa số các thuyền ở đây đều được làm bằng sắt, có độ dày khoảng 2 ly và có thể chở được hàng chục người. Với những chiếc thuyền lớn có thể chở tới 35 người một lúc. Mỗi thuyền có một sơn nữ với cái dáng mềm mại mỗi khi gập người khua mái chèo đưa khách vào vãn cảnh chùa.

  Trên suối yến lúc nào cũng có thuyền vào, ra tấp nập, song không mấy khi có cảnh thuyền bè va chạm vào nhau bởi lẽ đường vào và đường ra trên dòng suối đã được phân định rất rõ ràng. Tất cả đều đi theo một trật tự nhất định. Thuyền nọ đi sát thuyền kia. Không có cảnh lạng lách, vượt ẩu như khi tham gia giao thông trên bộ. Đi trên suối yến dường như ta đang được gột rửa mọi bụi bẩn của cõi trần tục để đến với cõi thần tiên chay tịnh. Đường suối chỉ dài chừng 4 km, song do có sự uốn lượn quanh co giữa các đoạn, các khúc theo các dãy núi nên dù có cố phóng hết tầm mắt thì các du khách cũng khó lòng thấy được điểm kết thúc. Từ đây, du khách có thể thả hồn, nhìn ngắm cảnh vật xung quanh với những dãy núi, ngọn cây, hay đồng hành cùng những vạt lúa non tơ viền 2 bên mép nước… và lắng nghe tiếng kể dìu dặt của những cô sơn nữ chèo thuyền kể về các truyền thuyết, sự tích trên các đoạn đường mà thuyền vừa đi qua.


Trên dòng, nước xanh trong veo, du khách có thể soi mình hay buông những cánh tay trần xuống nước để mặc cho chúng vuốt ve âu yếm. Đôi khi những cô bé, cậu bé không kìm được sự hiếu động của bản thân đã đập mạnh những cánh tay xuống nước làm cho bọt nước bắn tung toé, ướt cả những người xung quanh. Song dường như không một ai cảm thấy khố chịu về điều đó mà ngược lại còn thấy vui lây vì sự hiếu động ấy. Bên cạnh đó, khi đi trên suối, du khách còn được ngắm nhìn những đám rong mềm mại lay động dưới mặt nước trong xanh. Mỗi khi có một mái chèo khoả sâu vào trong nước thì đám rong rêu ấy xô dáp vào nhau như đang thì thầm kể cho nhau nghe chuyện về các du khách ngày ngày đã đi qua đây… Đoạn đường suối tuy ngắn ngủi, song nó lại là nơi yên tĩnh nhất trong thắng cảnh hương sơn. Những con thuyền ngày ngày vẫn cần mẫm đưa du khách đến vãn cảnh Hương Sơn không ồn ào, vội vã. Chúng đủng đỉnh lướt nhẹ trên mặt nước, để du khách có thời gian để tĩnh tâm, để nhìn ngắm thiên nhiên và tận hưởng không khí thần tiên...

    Mỗi du khách khi vào vãn cảnh Hương Sơn bằng đường thuỷ đều phải qua suối yến hai lần. Một lần vào, một lần ra. Song con đường ấy dường như không làm cho du khách cảm thấy nhàm chán. Mà ngược lại ở mỗi chiều, dù là đi hay về, thì suối yến vẫn mang đến cho du khách những cảm nhận bất ngờ. Song có lẽ điều lôi cuốn nhất của dòng suối là sự yên tĩnh, thanh bình cũng như sự hoà hợp giữa non và nước. Đúng là “Sơn Thuỷ hữu tình” như ai đó đã nói. Và nếu ai đó, chưa một lần được đến Hương Sơn, thì hãy thử để cùng cảm nhận về sự quyến rũ của suối yến trong xanh cùng cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ của danh thắng Chùa Hương.

Khách Sạn Hòa Nam Xã Hòa Nam, Ứng Hòa, Nội là một trong những khách sạn tại hà nội phù hợp với bạn khi đến đây.
Khách sạn đạt chuẩn 3 sao theo tiêu chuẩn quốc tế, nằm trên vị trí đắc địa: nằm ngay khu tổ hợp trung tâm thương mại Hiền Lương, là nơi giao thương của hai huyện Ứng Hòa và Mỹ Đức. Khách sạn gồm 55 phòng nghỉ, nhà hàng, tổ hợp khu giải trí với 10 phòng karaoke hiện đại và 01 khu spa và nhiều phòng chức năng khác. Tất cả các phòng đều được thiết kế tỉ mỉ tới từng chi tiết và đáp ứng những tiêu chuẩn cao nhất của khách du lịch theo mùa.  

Chùa Thiên Trù là điểm đến tiếp theo:

Chùa Thiên Trù, chùa thiên trù, thiên trù, ctt, tt

Trong tuyến hành trình Hương – Thiên, thì Đền Trình – Thiên Trù – Hương Tích là 3 điểm dừng chân chính của bất kỳ du khách nào về với Chùa Hương. Sau khi làm lễ trình Sơn Thần ở Ngũ Nhạc Linh Từ (Đền Trình) du khách lại tiếp tục xuôi dòng Suối Yến cùng người lái đò để đi đến điểm dừng chân thứ hai là Thiên Trù.
Chùa Thiên Trù tọa lạc trên thềm núi Lão được xây dựng từ năm Đinh Hợi (1467) đời vua Lê Thánh Tông niên hiệu Quang Thuận thứ 8. Theo một số sử ký còn lưu lại có chuyện kể rằng: trong một chuyến tuần thú phương Nam lần thứ hai, Vua Lê Thánh Tông cùng tướng sĩ qua vùng núi Hương Sơn nghỉ lại ở Thung Lũng núi Lão và cho quân lính thổi cơm ăn. Trong lúc thưởng ngoạn cảnh sắc thiên nhiên, Vua xem thiên văn thấy vùng này ở vào vị trí của sao Thiên Trù (Bếp Trời - một sao chủ về ăn uống), nên nhân đấy nhà Vua đặt tên cho thung lũng này là Thiên Trù. Sau lần đó, có 3 vị Hoà thượng (Tỷ Tổ Bồ Tát) tới đây dựng thảo am để tu hành và đặt tên là Thiên Trù Tự (chùa Thiên Trù). Nhưng sau 3 vị Hoà thượng này, việc trụ trì ở Chùa Thiên Trù bị gián đoạn nhiều năm.
    Đến niên hiệu Chính Hoà năm thứ 7 (1686) đời Vua Lê Trung Hưng, Hoà thượng Vân Thuỷ Thiền Thiên Trần Đạo Viên Quang được Vua phong Thượng lâm viện Viên Giác Tôn Giả Ty Tăng Lục (thời Lê, Ty Tăng Lục được lập ra để chăm sóc, cai quản các vị tu hành) tới đây tái lập đạo Phật, phát triển Phật giáo và cùng hương dân nơi đây xây dựng lại ngôi Tam Bảo, trùng hưng Thiên Trù Tự.
    Tiếp sau Hoà thượng Trần Đạo Viên Quang việc trụ trì và phát triển Phật giáo ở đây lại gián đoạn một lần nữa. Phải đến 20 năm sau, tức vào năm 1707, có Đại sư Thông Lâm tới trụ trì và tiếp tục cùng hương dân thôn Yến Vĩ xây dựng Chùa Thiên Trù thành ngôi Tam Bảo lợp bằng lá 5 gian và 6 gian tả, hữu vu để thờ Phật và tu hành. Kế thừa Đại sư Thông Lâm là Hoà thượng Thanh Quyết trụ trì. Với sự giúp đỡ của các tín đồ, phật tử, thiện tín muôn phương, chính điện chùa Thiên Trù được khởi công xây dựng vào năm Mậu Thân niên hiệu Duy Tân thứ 2. Sang đời trụ trì của Đại sư Thanh Tích công việc xây dựng kiến thiết vẫn được tiếp tục triển khai và kéo dài gần 10 năm, để rồi Thiên Trù trở thành một lâu đài nguy nga tráng lệ giữa núi rừng Hương Sơn, hiện lên như một kiến trúc nghệ thuật độc đáo.
    Chùa Thiên Trù được xây dựng trên một mảnh đất hình chữ nhật chạy dài suốt từ sân dốc cho tới bức tường ngăn giữa khoảng đất bằng phẳng và núi Sau Chùa. Kiểu kiến trúc của Thiên Trù có tên là “Ngũ môn tam cấp” - tức năm cửa ba bậc. Qua cổng là đến sân. Hai bên sân là hai dãy nhà tranh làm nơi ăn nghỉ cho du khách trong ngày hội. Qua sân là đến bảo thềm thứ nhất – đây cũng là một cái sân. Trước bảo thềm này có đặt một đỉnh đồng cao 3m dùng để khói nhang. Qua sân bảo thềm thứ nhất là đến bảo thềm thứ hai – là một cái sân cao hơn. Hai bên sân bảo thềm thứ hai là những gian nhà cầu cho khách ngủ trọ. Tiến đến sân bảo thềm thứ ba cao hơn một chút, qua hai cửa tam quan nối vào Tam Bảo chính là nơi thờ Phật. Hai bên Tam Quan là gác trống bên trái và gác chuông bên phải. Hai bên Tam Bảo là hai bể nước, các buồng sư, buồng cung văn, nhà dấu, nhà oản,…vv. Phía sau Tam Bảo là điện Thánh Mẫu bên trái, gác tàng thư, nhà Tổ ở giữa và Thiên Thuỷ tháp bên phải.
Có thể nói Chùa Thiên Trù là một công trình kiến trúc văn hóa nghệ thuật Lê -Nguyễn. Sự bố cục rất hài hòa:tam bảo, tiền đường, nhà thờ tổ, nhà thờ mẫu, nhà khách, các nhà kho…có đủ phương tiện sinh hoạt cho hàng trăm người nghỉ lại lễ Phật qua đêm. Đây là một ngôi chùa nổi tiếng thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX


Một góc chùa Thiên Trù

Tuy nhiên, trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954) giặc Pháp đã đánh và ném bom ra vùng đất Hương Sơn 3 lần (1947, 1948 và 1950). Ngày 11 tháng 2 năm 1947 (tức năm Đinh Hợi) Tam Bảo và một số công trình đã bị giặc Pháp tàn phá. Trong suốt 15 ngày, Chùa Thiên Trù bị lửa thiêu không sao dập tắt nổi. Đến năm 1950, lại một lần nữa giặc Pháp cho máy bay ném bom tàn phá toàn bộ các công trình, chỉ còn lại vườn Tháp là không bị tàn phá nặng nề. Sang năm 1951 (tức năm Tân Mão), Hoà thượng Thanh Chân đã cho dựng lên từ đống tro tàn đổ nát 6 gian nhà tranh để có nơi tu hành và nhang khói.


    Sau khi hoà bình lập lại trên đất Bắc, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cùng với sự đóng góp công đức của thập phương, Hoà thượng Thích Thanh Chân cùng chính quyền và nhân dân địa phương đã khởi dựng 7 gian nhà khách khang trang vào năm Mậu Tuất (1958), tạm thời làm nơi thờ Phật và để thập phương về Lễ hội dâng hương, từng bước xóa dọn vết tích chiến tranh.
    Từ năm 1984 đến 1985, Ty Văn hoá – Thông tin Hà Sơn Bình (nay là Sở Văn hoá – Thông tin tỉnh Hà Tây) đã cùng nhà chùa tranh thủ sự ủng hộ của du khách thập phương, xây dựng lại gác chuông 8 mái theo kiểu chùa Ngăm ở giữa sân Thiên Trù. Đặc biệt, kể từ năm 1989 Ban xây dựng chùa Hương đã được thành lập do Hoà thượng Thích Viên Thành làm Trưởng ban. Kể từ đây, Ban xây dựng Chùa Hương đã vận động nhân dân, phật tử thập phương cùng sự chỉ đạo của ngành văn hoá tỉnh đã khởi công xây dựng toà Tam Bảo (ngày 18 tháng 3 năm 1989), và đến ngày 11 tháng Giêng năm 1991 thì được khánh thành. Năm 1992 Ban xây dựng khởi công xây dựng điện Hương Thuỷ và khánh thành vào ngày 11 tháng Giêng cùng năm. Điện Hương Thuỷ là nơi thờ tượng Mẫu Liễu Hạnh - người được mệnh danh là Mẫu nghi thiên hạ. Đây là công trình mang phong cách dân gian của nhà điêu khắc Trần Tuy. Năm 1993, Tổ đường và Bảo điện phía sau Tam Bảo được xây dựng và khánh thành vào ngày 11 tháng Giêng năm Quý Dậu (1993). Cùng năm này, động Vân Thuỷ Thiền Thiên nằm phía trên Thiên Thuỷ Tháp, nơi thờ Thượng ngàn chúa tể cũng được khai mở khánh thành. Năm 1994, cổng Nam Thiên Môn cũng được hoàn thành vào đúng ngày  11 tháng Giêng, đứng sừng sững giữa núi rừng Hương Sơn.
    Trải qua hai thập niên qua, Chùa Thiên Trù luôn được tô điểm thêm những nét vẽ cho bức tranh thiên nhiên hùng tráng bằng những công trình kiến trúc đặc sắc. Được như vậy là nhờ công đức to lớn của tín đồ, du khách thập phương, của nhân dân sở tại và đặc biệt là sự cố gắng chăm lo vun đắp của cố Thượng toạ Thích Viên Thành và Đại đức Thích Minh Hiền - người đang giữ vị trí trụ trì Chùa Hương.
    Hiện nay, với quần thể kiến trúc nguy nga, hoành tráng, Thiên Trù trở thành trung tâm của thắng cảnh Hương Sơn.


Dòng người đông đúc tại chùa Thiên Trù.

Đặc sản nơi đây

Dac san chua Huong
Rau sắng.
Chè củ mài, mơ quả hay rau sắng chùa Hương là ba món ngon nổi tiếng của vùng Hương Sơn, Hà Tây, luôn để lại ấn tượng khó quên với khách du lịch.
Dac san chua Huong
Chè củ mài
Cứ mỗi độ tháng 2, tháng 3 âm lịch, khi hoa gạo "thắp lửa" chốn Phật thiền, cũng là lúc cả rừng mơ ở Hương Sơn vào mùa trái chín, tỏa hương thơm ngào ngạt khiến nhiều khách phương xa bâng khuâng nửa ở nửa về.
Nhờ thổ nhưỡng đặc biệt của vùng núi đá vôi nên mơ chùa Hương nổi tiếng khắp đất Bắc bởi quả to, hạt nhỏ, cùi dày và mọng nước, vị chua nhẹ, thanh mà không gắt. Đặc biệt, mơ chùa Hương có tới bốn loại khác nhau, được cư dân phân biệt và đặt tên theo mùi vị và mầu sắc, đó là mơ đào, mơ chấm son, mơ bồ hóng và mơ nứa.
Dù ăn tươi hay dùng để ngâm rượu, làm xí muội, ô mai... cả bốn loại trên đều cho mùi vị thơm ngon đặc biệt, vừa có tác dụng chữa bệnh đường ruột, mất tiếng, phù thũng, viêm họng... vừa để an thần và giải khát.
Giữa trưa nắng nóng, còn gì sảng khoái hơn được giải khát bằng một ly mơ ngâm chua ngọt hay nhấp ngụm nước "lão mai" thơm mát được nấu từ gỗ cây mơ già hàng trăm tuổi.
Còn nếu muốn tìm một món ăn chơi để nhâm nhi cho đỡ buồn giữa lúc dừng chân nghỉ mệt trước khi tiếp tục chuyến hành hương, khách có thể ghé vào các quán ven dường, gọi chén chè củ mài và thưởng thức cái thú ẩm thực thanh cảnh nơi cửa Phật.
Củ mài vỏ đen, ruột trắng, nhìn hơi giống củ khoai lang nhưng to gấp hai, ba lần. Khi nấu chè củ mài, người ta không xắt miếng, cũng không xay hay giã thành bột mà một tay cầm củ, một tay cầm con dao cau thật sắc, thoăn thoắt gạt từng miếng củ thả dần vào nồi nước đường đã đun sôi. Khi chè chín, củ dẻo mềm một cách đặc biệt, vị lại thơm ngon, ngọt mát vô cùng.
Bên cạnh mơ lông và củ mài, rau sắng là một sản vật đặc biệt khác của Hương Sơn. Là một loại cây thân mộc, ưa ánh sáng, mọc tự nhiên trên những vách núi đá hiểm trở nên rau sắng được xếp vào hàng cực phẩm, nổi tiếng thơm ngon mà lại giàu chất dinh dưỡng.
Lá non rau sắng có mầu xanh thẫm, óng ả, mùi vị đậm đà nên chỉ cần vài nhánh là đã đủ nấu một bát canh cho bốn người ăn.
Canh rau sắng có thể nấu với thịt, cá, tôm... nhưng theo khách sành ăn, ngon nhất vẫn là bát canh rau sắng nấu suông, nêm thêm một chút muối cho có vị.
Có chậm rãi nhai từng chiếc lá nhỏ, thưởng thức thật kỹ vị ngọt, vị bùi khó tả của rau sắng thì mới hiểu tại sao món ăn này được thực khách gần xa ưu ái đến vậy.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét