Thứ Tư, 27 tháng 11, 2013

Chùa Phật Đà

Chùa Phật Đà, chùa phật đà, phật đà
Vị trí: thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang
Người có công kế vị và đẩy mạnh sinh hoạt tu học chùa Phật Đà hưng thịnh trong những năm cuối cùng của thế kỷ thứ 20 là TT Thích Minh Hiền, ủy viên Ban Hoằng pháp (HP) Trung Ương.
Thầy về đây trụ trì vào đầu tháng 12.1980, cũng là dịp ngôi Tam bảo này trùng tu lần thứ hai dưới sự cố vấn của H.T Ngộ ChânTử, Viện chủ chùa Hoằng Pháp (Hóc Môn). Giai đoạn 1980-1991, vì quyết tâm tu học cho sáng đạo nên Thầy Minh Hiền hạn chế tiếp xúc với mọi người để có thời gian chuyên tu nhiều hơn. Vào năm 1989, được sự tín nhiệm của Ban HP Thành hội và Ban HP TU - Thầy bắt đầu sự nghiệp hoằng pháp Tổ sư Thiền tại trường hạ các quận huyện và các tỉnh : Tây Ninh, Tiền Giang, Bến Tre, Sóc Trăng, Cà Mau.
Từ đó đến nay công tác của thầy vẫn đều đặn, nhất là ở huyện Củ Chi, Đạo tràng chuyên tu Tổ sư Thiền luôn phát triển với nhiều tín hiệu lạc quan. Năm 1998, được sự quan tâm giúp đở của các cấp Giáo hội, chính quyền địa phương, cùng tinh thần hoan hỷ phát tâm của Phật tử xa gần, vì thế lần đại trùng tu ngôi Tam bảo lần thứ 3 được thành tựu viên măn với kinh phí là 750 triệu đồng, diện tích 250m2 gồm chánh điện, Thiền đường và 4 căn phòng chư Tăng.
  
Hiện nay lịch sinh hoạt tu học Tổ sư Thiền hàng tháng được tổ chức từ ngày 21- 27 âm lịch. Vào mỗi tối mùng 1, Thầy trụ trì có buổi thuyết giảng giáo lý để hướng dẫn Phật tử tu học.  Tóm lại, từ khi chùa Phật Đà thành lập vào nam 1962 do cụ Lê Đình Nguyên, Phật tử địa phương chủ trương vận động mọi người ủng hộ xây dựng. Đến năm 1963, TT Thích Thông Lỉễu trụ trì (hiện đang ở Nhật). Năm 1970, được sự cúng dường của cụ Trần Văn Thoại, chùa trùng tu lần thứ 2 với vật liệu nhẹ. Vào thời điểm đó, Thầy Tâm Tịnh trụ trì. Trải qua những biến thiên của cuộc sống, ngôi Tam bảo Phật Đà giờ đây đã uy nghi hoàn chỉnh với sự hộ trì của 13 vị Tăng.  

Có rất nhiều khách sạn tại phú quốc cho bạn lựa chọn bạn có thể chọn Khách Sạn Dủ Hưng 2 ở 83 Trần Hầu, P.Bình San, Tx. Hà Tiên, Kiên Giang   
 Khách sạn Dủ Hưng tọa lạc tại trung tâm thị xã Hà Tiên, gần chợ và gần biển Hà Tiên. Khách sạn có không gian rộng và thoáng mát. Dủ Hưng gồm 25 phòng gồm 2 hạng là standard và VIP. Các phòng nghỉ được trang bị đầy đủ tiện nghi: máy lạnh, máy nước nóng, tivi, tủ lạnh, điện thoại... Ngoài ra, khách sạn còn có các dịch vụ khách như: internet tốc độ cao, thang máy, bãi đậu xa, dịch vụ đặt vé tàu….Cùng với đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, phục vụ nhiệt tình sẽ mang đến sự hài lòng cho quý khách.

Lăng Mạc Cửu là điểm đến tiếp theo

Lăng Mạc Cửu, lăng mạc cửu, mạc cửu, lmc, mc

Nằm trên đường Mạc Cửu dưới chân núi Bình San, thuộc phường Bình San, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, khu di tích lăng Mạc Cửu thờ dòng họ Mạc mà khởi đầu là Mạc Cửu, người đã có công khai phá mảnh đất Hà Tiên hơn 300 năm truớc.
Mạc Cửu là người Quảng Đông, Trung Quốc, vì không chịu để tóc và theo một số tập tục của nhà Thanh nên đã rời bỏ đất nước để ra đi buôn bán thương mại ở một số nước Đông Nam Á. Năm 1680, khi đến Hà Tiên, ông đã dừng lại ở đây để xây dựng và phát triển vùng đất này. Đến tháng 8 năm 1708, nhận thấy vị thế rất mạnh của nhà Nguyễn trong cuộc chiến mở mang bờ cõi phía Nam, Mạc Cửu đã dâng vùng đất Hà Tiên cho nhà Nguyễn và được Chúa Nguyễn là Phúc Chu chấp thuận và phong làm “Tổng trấn Hà Tiên”.
Mặc dù đã dâng Hà Tiên cho nhà Nguyễn, nhưng chúa Nguyễn Phúc Chu vẫn cho Mạc Cửu quyền tự chủ tại vùng đất này, duy trì truyền thống cha truyền con nối như một tiểu vương và 7 đời dòng họ Mạc đã đem hết công sức của mình để biến Hà Tiên thành một đầu mối giao thương của nước Đại Việt xưa với các nước trong vùng.
Lăng và đền thờ Mạc Cửu do Mạc Thiên Tích (con trai trưởng của Mạc Cửu) thiết kế, xây dựng từ năm 1735 đến năm 1739. Mặt tiền đền quay về hướng Đông, nơi có núi Tô Châu với dòng lưu thủy Đông Hồ, lưng tựa vào vách núi hình vòng cung vững chãi, bên trái là núi Bát Giac; bên phải là Đại Kim Dự.





Từ dưới chân núi đi lên, du khách sẽ gặp cổng đền thờ họ Mạc.Bên trong cổng là một khoảng sân rộng tạo cho không gian đền thờ lúc nào cũng yên tĩnh và trầm mặc. Nằm bên phải đền thờ là nhà tiền hiền thờ những người trước Mạc Cửu đã đến Hà Tiên, bên trái là nhà hậu hiền thờ những người đến sau ông.


Bên trong chính điện, bàn thờ ở giữa thờ ngai vị của Mạc Cửu và các hậu duệ của ông do những người dòng họ Mạc được coi như những tiểu vương tại Hà Tiên. Bên phải là bàn thờ các quan văn, quan võ dưới thời họ Mạc, bên trái là bàn thờ các phu nhân của dòng họ. 
 Lần theo một con đường bậc thang lên núi Bình San, du khách sẽ tới phần lăng mộ với hơn 60 ngôi mộ cổ được chia thành 4 khu riêng biệt: khu 1 là lăng mộ các tiểu vương dòng họ Mạc. Lăng mộ Mạc Cửu nằm ở vị trí cao nhất trong khu 1, có hình bán nguyệt và được khoét sâu vào núi, mộ có hình dáng như một con trâu nằm( thế tọa ngưu) ở 2 bên mộ có 2 vị tướng bằng đá đứng canh giữ. Khi xây lăng mộ cho cha Mạc Thiên Tích đã mang đá ở bên Malaixia về để lát.
Khu 2 là lăng mộ các phu nhân, khu 3 là lăng mộ các quan và khu 4 là lăng mộ các thành viên khác của dòng họ Mạc. Đi vòng theo chân núi chừng 3km, du khách sẽ bắt gặp chùa Phù Dung( Phù Dung cổ tự). Ngôi chùa hấp dẫn du khách không chỉ bởi vẻ đẹp cổ kính, hài hoà với thiên nhiên mà còn bởi những câu chuyện bí ẩn gây tranh cãi về lai lịch ngôi chùa.



Nằm trên đỉnh núi Bình San là đàn xã tắc, nơi hành lễ cúng tế trời đất của Hà Tiên xưa và nay. Nền đàn xã tắc có hình bát quái lớn màu đỏ, ở giữa màu đen, tâm vàng, trên đặt 1 lư hương lớn bằng đồng. Vào ngày 15/1 âm lịch hàng năm, các đàn cúng sẽ được lập nhưng mỗi năm lại khác nhau về giờ cúng. Khu di tích Núi Bình San nằm trong quần thể thắng cảnh nổi tiếng từng được ngợi ca trong Hà Tiên thập vịnh, nơi đây đã trờ thành điểm đến lý tưởng dành cho du khách muốn tìm về cội nguồn của vùng đất Hà Tiên.
Lăng Mạc Cửu là một trong những cảnh đẹp của Hà Tiên. Du khách đến viếng thăm Lăng sẽ được nghe những câu chuyện về dòng họ Mạc, một dòng họ có nhiều công lao trong việc khai thác và trấn giữ đất Hà Tiên. Ngày 21/1/1989, núi Bình San được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là thắng cảnh quốc gia. 

Nhum Phú Quốc 

Hương vị nhum Phú Quốc không giống bất cứ một loại hải sản nào. Thịt và trứng nó vừa ngọt, béo, thơm tựa gạch cua bể lẫn dư vị mằn mặn của biển...  Ấn tượng vô cùng!
Họ hàng với trai, sò… nhum có nhiều loại: nhum mỡ, nhum ta… Khi nhỏ, nhum tựa trái chôm chôm, màu đen thẫm. Lớn lên, nhum có hình tròn dẹt, đường kính khoảng 8-10cm. Con nhum lớn hết cỡ có thể bằng trái cam sành nhưng dẹp, dày cỡ ba lóng tay. Người miền Trung chế biến nhiều món ăn như nhum kho, chưng hột vịt để ăn cơm, cháo nhum hải sản (hàu, sò, nghêu) ngọt như cháo trứng gà.

Chả nhum-một món ngon khó quên. Cho thịt nhum tươi vào cái tô lớn, thêm một ít gia vị như tiêu, hành, nước mắm rồi đánh nhuyễn, sau đó đổ vào chảo dầu chiên. Khi miếng chả vàng ruộm, bốc mùi thơm, vớt ra, để ráo. Dùng với bánh đa (bánh tráng dày nhiều mè), rau sống, chuối chát xắt mỏng, sẽ cho một bữa ngon nhớ đời. Tuy nhiên, ngon nhất là làm mắm.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét