Đền Nguyễn Trung Trực
Cụ
Nguyễn Trung Trực, anh hùng dân tộc, vốn là một người dân chài ở Bình
Định. Nhân dân tỉnh Kiên Giang gọi Nguyễn Trung Trực bằng "Ông", "Cụ"
hoặc "Cụ Nguyễn" vì kiêng gọi tên húy. "Cụ Nguyễn" bị giặc Pháp đưa ra
pháp trường lúc mới 30 tuổi. Cuộc đời ông tuy ngắn ngủi nhưng rất hào
hùng, với những chiến công hiển hách đã đi vào lịch sử chống ngoại xâm
của dân tộc. Để tưởng nhớ đến ông, ở Kiên Giang có rất nhiều miếu thờ Cụ
Nguyễn.
Đền
thờ Nguyễn Trung Trực nằm ở phía tây của trung tâm thị xã Rạch Giá,
trên đường Nguyễn Công Trứ. Mặt đền quay ra cửa biển và cách biển khoảng
100m. Năm 1869, đền chỉ là ngôi nhà nhỏ bằng gỗ, mái lợp lá, do người
dân chài dựng lên để thờ thần Nam Hải (cá voi). Mỗi năm đến ngày mất
của Cụ, nhân dân các nơi tụ tập về đây tổ chức cúng cơm cho Cụ. Qua
nhiều lần sửa chữa và mở rộng vào các năm 1881-1964-1970, ngôi đền đã
khang trang hơn. Đến năm 1988, Bộ Văn hóa đã ra quyết định công nhận mộ
và đền Nguyễn Trung Trực là di tích lịch sử - văn hóa.
Ngôi
đền hiện nay được khởi công xây dựng vào ngày 20-12-1964, khánh thành
ngày 24-2-1970, do kiến trúc sư Nguyễn Văn Lợi thiết kế, toàn bộ kinh
phí xây dựng do nhân dân đóng góp. Đền được xây dựng theo kiểu chữ tam,
gồm có chánh điện, đông lang và tây lang. Cột kèo bằng bê tông, mái lợp
ngói. Cổng đền ba cửa (dạng cổng tam quan).
Trước cửa chánh điện có một lư hương bằng đá, trên nóc mái đền được
trang trí cảnh "lưỡng long tranh trân châu", các góc mái đắp hình lá
cúc cách điệu và hình rồng. Tất cả các mảng phù điêu trên được làm bằng
xi măng cẩn những mảnh gốm nhiều màu rất đẹp. Cửa đình có hai cột đắp
nổi hình rồng uốn lượn từ dưới lên quấn quanh cột, biểu tượng cho uy
quyền và sức mạnh. Trong đền có 10 cây cột bằng bê tông, mỗi cột có
chân hình bát giác, phía trên hình bát giác có đắp nối hai lớp cánh
sen.
Qua lần sửa chữa vào năm 1881, ngôi đình đã khang trang hơn. Nhưng để có diện mạo như ngày hôm nay, chính là nhờ lần khởi công sửa chữa lớn vào ngày 20 tháng 12 năm 1964, khánh thành ngày 24 tháng 2 năm 1970, do kiến trúc sư Nguyễn Văn Lợi thiết kế, với toàn bộ kinh phí xây dựng do nhân dân đóng góp.
Năm 1988, Bộ Văn hóa – Thông tin đã công nhận mộ và đền Nguyễn Trung Trực là di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia.
Có rất nhiều khách sạn ở phú quốc cho bạn lựa chọn hoặc bạn có thể chọn cho mình rất nhiều khác sạn phù hợp với bạn. Chẳng hạn như Khách Sạn Nhã Uyên ở 724 Nguyễn Trung Trực , Rạch Giá , Kiên Giang
Hãy ngồi thoải mái và thư giãn ở một trong 18 phòng của khách sạn, tất cả đều được thiết kế để đem lại sự dễ chịu cho du khách. Trong tất cả các phòng đều có phòng không hút thuốc, tivi, bàn. Bạn cũng tìm thấy ở khách sạn dịch vụ phòng, dịch vụ đỗ xe, két an toàn. Khách sạn duyên dáng này từ lâu đã là điểm đến yêu thích ở Rạch Giá cho cả khách doanh nhân và đi nghỉ.
Sau đó thăm Chùa Láng Cát
Tên thường gọi: Chùa Láng Cát Chùa tọa lạc tại số 325 đường Ngô Quyền, khu phố 1, phường Vĩnh Lạc, thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. ĐT: 077.863786. Chùa thuộc hệ phái Nam tông (Khmer).
Tài liệu của chùa cho biết, chùa được thành lập vào năm 1412 với tên gọi là chùa Angkor Chum. Người dân thường gọi tên chùa Láng Cát vì chùa nằm trên vùng đất cát cao ở phía Đông Nam thị xã Rạch Giá, cách trung tâm thị xã khoảng 1000m.
Vị Hòa thượng khai sáng và trụ trì đầu tiên là Riddhijaya, sanh năm 1370 tại Campuchia. Hòa thượng viên tịch năm 1442.
Chùa đã qua 31 đời trụ trì. Hòa thượng Danh Hao, đời trụ trì thứ 25 đã đổi tên chùa Angkor Chum Wongsa. Hòa thượng Danh Ơt, đời trụ trì thứ 26 đổi tên chùa Ratanaransi. Hòa thượng Danh Nhưỡng, đời trụ trì thứ 31, là vị trụ trì hiện nay. Hòa thượng hiện đang giữ nhiều chức vụ ở tỉnh Kiên Giang và trong Giáo hội Phật giáo. Hòa thượng là thành viên Hội đồng Chứng minh Trung ương, Ủy viên Ban Thường trực Hội đồng Trị sự Trung ương kiêm Phó Trưởng Ban Tăng sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Tôn trí tầng cao nhất là tượng đức Phật Thích Ca thành đạo, bên dưới là các tượng đức Phật trì bình khất thực, đức Phật cứu độ chúng sanh.
Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.
Bánh canh ghẹ chả - món ngon xứ biển Kiên Giang
Tô
bánh gần như lấp đầy mặt là thịt ghẹ, chả cá thu và vài cọng ngò như
thêm hoa, thêm nhụy. Tô bánh ngon nhờ miếng ghẹ nào cũng béo ngọt, miếng
chả cá thu mằn mặn, vừa dẻo vừa dai, cọng bánh canh trắng trong dai
giòn hấp dẫn. Trong lúc thả hồn theo hương vị, bắt gặp vị cay của tiêu
hòa cùng làn gió biển làm tăng thêm vị ngon của phong cảnh hữu tình.
Nồi
nước lèo của bánh canh được nấu với tôm khô và thịt, xương, đặc biệt là
nấu đầu cá thu vừa mặn mà không làm mất đi độ ngọt của cá tươi, tôm
khô.
Chả được
làm bằng thịt cá thu tươi mua về rửa sạch nạo ra, cùng hỗn hợp gia vị
tiêu, tỏi, hành, bột ngọt, một chút nước mắm trộn đều cho vào cối quết,
quết càng nhuyễn thì thịt cá càng dai, để tạo thêm vị béo cho thêm ít mở
xắt hạt lựu trộn chung, trôn gia vị vừa ăn, nhất là có ít tiêu tạo thêm
đậm đà cho miếng chả. Chả ép thành miếng dẹp hấp chín, đem cắt thành
từng miếng nhỏ vừa ăn. Ghẹ rửa sạch luộc chín được lấy thịt ra.
Bánh
canh rất ngon, húp miếng nước súp ngọt đậm đà. Bánh canh ghẹ chả đã trở
thành đặc sản của Hà Tiên. Vị ngọt của cá của chả cá mãi vấn vương đầu
lưỡi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét