Lăng Mạc Cửu
Mạc Cửu là người Quảng Đông, Trung Quốc, vì không chịu để tóc và
theo một số tập tục của nhà Thanh nên đã rời bỏ đất nước để ra đi buôn
bán thương mại ở một số nước Đông Nam Á. Năm 1680, khi đến Hà Tiên, ông
đã dừng lại ở đây để xây dựng và phát triển vùng đất này. Đến tháng 8
năm 1708, nhận thấy vị thế rất mạnh của nhà Nguyễn trong cuộc chiến mở
mang bờ cõi phía Nam, Mạc Cửu đã dâng vùng đất Hà Tiên cho nhà Nguyễn và
được Chúa Nguyễn là Phúc Chu chấp thuận và phong làm “Tổng trấn Hà
Tiên”.
Mặc dù đã dâng Hà Tiên cho nhà Nguyễn, nhưng chúa Nguyễn Phúc Chu vẫn cho Mạc Cửu quyền tự chủ tại vùng đất này, duy trì truyền thống cha truyền con nối như một tiểu vương và 7 đời dòng họ Mạc đã đem hết công sức của mình để biến Hà Tiên thành một đầu mối giao thương của nước Đại Việt xưa với các nước trong vùng.
Lăng và đền thờ Mạc Cửu do Mạc Thiên Tích (con trai trưởng của Mạc Cửu) thiết kế, xây dựng từ năm 1735 đến năm 1739. Mặt tiền đền quay về hướng Đông, nơi có núi Tô Châu với dòng lưu thủy Đông Hồ, lưng tựa vào vách núi hình vòng cung vững chãi, bên trái là núi Bát Giac; bên phải là Đại Kim Dự.
Từ dưới chân núi đi lên, du khách sẽ gặp cổng đền thờ họ Mạc.Bên
trong cổng là một khoảng sân rộng tạo cho không gian đền thờ lúc nào
cũng yên tĩnh và trầm mặc. Nằm bên phải đền thờ là nhà tiền hiền thờ
những người trước Mạc Cửu đã đến Hà Tiên, bên trái là nhà hậu hiền thờ
những người đến sau ông.
Bên trong chính điện, bàn thờ ở giữa thờ ngai vị của Mạc
Cửu và các hậu duệ của ông do những người dòng họ Mạc được coi như những
tiểu vương tại Hà Tiên. Bên phải là bàn thờ các quan văn, quan võ dưới
thời họ Mạc, bên trái là bàn thờ các phu nhân của dòng họ.
Mặc dù đã dâng Hà Tiên cho nhà Nguyễn, nhưng chúa Nguyễn Phúc Chu vẫn cho Mạc Cửu quyền tự chủ tại vùng đất này, duy trì truyền thống cha truyền con nối như một tiểu vương và 7 đời dòng họ Mạc đã đem hết công sức của mình để biến Hà Tiên thành một đầu mối giao thương của nước Đại Việt xưa với các nước trong vùng.
Lăng và đền thờ Mạc Cửu do Mạc Thiên Tích (con trai trưởng của Mạc Cửu) thiết kế, xây dựng từ năm 1735 đến năm 1739. Mặt tiền đền quay về hướng Đông, nơi có núi Tô Châu với dòng lưu thủy Đông Hồ, lưng tựa vào vách núi hình vòng cung vững chãi, bên trái là núi Bát Giac; bên phải là Đại Kim Dự.
Lần theo một con đường bậc thang lên núi Bình San, du khách sẽ
tới phần lăng mộ với hơn 60 ngôi mộ cổ được chia thành 4 khu riêng biệt:
khu 1 là lăng mộ các tiểu vương dòng họ Mạc. Lăng mộ Mạc Cửu nằm ở vị
trí cao nhất trong khu 1, có hình bán nguyệt và được khoét sâu vào núi,
mộ có hình dáng như một con trâu nằm( thế tọa ngưu) ở 2 bên mộ có 2 vị
tướng bằng đá đứng canh giữ. Khi xây lăng mộ cho cha Mạc Thiên Tích đã
mang đá ở bên Malaixia về để lát.
Khu 2 là lăng mộ các phu nhân, khu 3 là lăng mộ các quan
và khu 4 là lăng mộ các thành viên khác của dòng họ Mạc. Đi vòng theo
chân núi chừng 3km, du khách sẽ bắt gặp chùa Phù Dung( Phù Dung cổ tự).
Ngôi chùa hấp dẫn du khách không chỉ bởi vẻ đẹp cổ kính, hài hoà với
thiên nhiên mà còn bởi những câu chuyện bí ẩn gây tranh cãi về lai lịch
ngôi chùa.
Nằm trên đỉnh núi Bình San là đàn xã tắc, nơi hành lễ
cúng tế trời đất của Hà Tiên xưa và nay. Nền đàn xã tắc có hình bát quái
lớn màu đỏ, ở giữa màu đen, tâm vàng, trên đặt 1 lư hương lớn bằng
đồng. Vào ngày 15/1 âm lịch hàng năm, các đàn cúng sẽ được lập nhưng mỗi
năm lại khác nhau về giờ cúng.
Khu
di tích Núi Bình San nằm trong quần thể thắng cảnh nổi tiếng từng được
ngợi ca trong Hà Tiên thập vịnh, nơi đây đã trờ thành điểm đến lý tưởng
dành cho du khách muốn tìm về cội nguồn của vùng đất Hà Tiên.
Lăng Mạc Cửu là một trong những cảnh đẹp của Hà Tiên. Du khách đến viếng thăm Lăng sẽ được nghe những câu chuyện về dòng họ Mạc, một dòng họ có nhiều công lao trong việc khai thác và trấn giữ đất Hà Tiên. Ngày 21/1/1989, núi Bình San được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là thắng cảnh quốc gia.
Lăng Mạc Cửu là một trong những cảnh đẹp của Hà Tiên. Du khách đến viếng thăm Lăng sẽ được nghe những câu chuyện về dòng họ Mạc, một dòng họ có nhiều công lao trong việc khai thác và trấn giữ đất Hà Tiên. Ngày 21/1/1989, núi Bình San được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là thắng cảnh quốc gia.
Khách sạn SoKha là một trong những khách sạn tại phú quốc phù hợp với bạn.
Hà Tiên là điểm đến tiếp theo
Nước mắm Phú Quốc
Nước mắm Phú Quốc là loại nước mắm được sản xuất tại Phú Quốc, nó là
một trong các loại nước mắm không những nổi tiếng ở Việt Nam mà còn được
biết ở nhiều nước trên khắp thế giới. Nước mắmPhú Quốc được sản xuất từ
nguyên liệu chính là cá cơmPhú Quốc, có truyền thống trên 200 năm
Nước mắm Phú Quốc đã được công nhận tên gọi xuất xứ “nước mắm Phú Quốc” tại châu Âu.
Nước mắm được sản xuất trong những thùng gỗ lớn, nó đóng vai trò như là
một thùng lên men trong ngành sản xuất rượu bia nhưng thời gian lên men
dài hơn, có khi đến 1 năm. Trước kia thùng đựng nước mắm thường làm
bằng cây bời lời vì cây này mềm nên khi niền không có chỗ hở, hiện nay
loại cây này khó kiếm nên người ta dùng vên vên và chai. Thùng được niền
bằng song mây có nhiều ở núi Ông Tám và Bắc Đảo.
Bất cứ loại cá nào cũng có thể sử dụng để làm nước mắm, nhưng người sản
xuất nước mắmPhú Quốc chỉ sử dụng duy nhất loại cá cơm làm nguyên liệu.
Cá cơm có nhiều loại: Sọc Tiêu, Phấn Chì, Cơm Đỏ, Cơm Lép, Sọc Phấn,
Cơm Than. Loại cá cơm cho nước mắm ngon nhất là Sọc Tiêu và Cơm Than.
Người ta trộn 2 hay 3 phần cá với 1 phần muối rồi để đến 1 năm, càng để
lâu hàm lượng đạm càng cao nhưng nước mắm ít thơm và màu bị sậm hơn.
Người ta còn chôn nước mắm vài ba năm, lúc đó màu nước mắm thành đen gọi
là nước mắm lú, dùng để chữa bịnh. Nếu dùng cá ươn thời gian sẽ mau hơn
nhưng nước mắm không thơm và màu không đẹp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét