Nhà thờ thám hoa Giang Văn Minh
Cổng vào
Thăm quan ở đây bạn có thể dễ dàng chọn cho mình một chỗ nghỉ ngơi phù hợp với mình. Moon Garden Homestay ở Thôn Kỳ Sơn, Xã Xuân Sơn, Huyện Sơn Tây, Hà Nội
Hãy ngồi thoải mái và thư giãn ở một trong 6 phòng của khách sạn, tất cả đều được thiết kế để đem lại sự dễ chịu cho du khách. Mỗi phòng đều có tivi LCD/Plasma, máy lạnh, máy sấy tóc. Để làm kỳ nghỉ của du khách hoàn thiện hơn, khách sạn ở Hà Nội này có nhà hàng, dịch vụ giặt là/giặt khô, két sắt. Sau một ngày làm việc hoặc khám phá, vườn là một vài cách để thư giãn. Khách sạn kết hợp dịch vụ chuyên nghiệp với các tiện nghi hiện đại để đem đến cho du khách một kỳ nghỉ đáng nhớ. Để tiếp tục đặt phòng của bạn tại khách sạn Moon Garden Homestay Hà Nội, hãy nhập ngày bạn đến và đi vào mẫu đặt phòng trực tuyến an toàn của chúng tôi. Hoặc bạn có thể chọn một khách sạn tại hà nội để nghỉ.
Đến đây bạn hãy thăm quan các điểm này nữa nhé
Chùa Mía
Không giống như nhiều ngôi chùa khác, chùa Mía vào mùa xuân không ồn ào hay nghi ngút khói hương mà vẫn yên tĩnh, trang nghiêm.
Chùa
Mía tọa lạc trên mảnh đất xứ Đoài giàu truyền thống, nơi hội tụ quần
thể di tích gồm nhiều đền chùa, miếu mạo, phản ánh quá trình xây dựng và
gìn giữ một vùng đất giàu truyền thống lịch sử. Chùa Mía tên hiệu là
“Sùng Nghiêm Tự”, nằm trên vùng đồi của làng Đông Xàng (xã Đường Lâm,
thành phố Sơn Tây), cách Hà Nội gần 50 cây số về phía tây.
Tòa Bảo tháp cử phẩm Liên Hoa thờ vọng Xá lợi Phật.
Đường
Lâm là một điển hình làng cổ Việt Nam, vừa được Nhà nước công nhận là
di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Nơi đây vẫn còn cây đa, bến nước,
sân đình, những ngôi nhà đỏ rực tường đá ong kiên cố, như chẳng hề có
vết tích thời gian.
Thế
kỷ XVII, chùa bị hư hỏng, điêu tàn đổ nát. Năm 1632, Cung phi Nguyễn
Thị Ngọc Dung đã đứng ra khuyến mộ thiện nam tín nữ các làng Đông Xàng,
Mông Phụ, Cam Thịnh, Cam Toàn… các làng thuộc Tổng Mía cùng tôn tạo
lại. Cung phi Ngọc Dung còn gọi là Ngô Thị Ngọc Diệu, là phi tần trong
phủ chúa Trịnh Tráng (1623-1657) vốn là người làng Nam Nguyễn (Nam An).
Nhân
dân trong vùng mến mộ uy đức của bà, đã tạc tượng đem thờ ở chùa.
Người dân nơi đây tôn sùng bà là “Bà Chùa Mía”. Về sau, Chùa được tu bổ
nhiều lần, nhưng đến nay từ quy mô đến kiến trúc của chùa vẫn được giữ
gần như nguyên vẹn. Tấm bia dưới gác chuông ghi năm Vĩnh Tộ thứ ba
(1621) nói về việc lập chùa.
Ngày
nay, con đường đi vào chùa Mía đã được xây đắp lại, đẹp và sạch sẽ
hơn. Từ trung tâm thành phố Sơn Tây, đi khoảng 5 cây số là đến cổng
chùa. Từ đây đi thêm một quãng nữa, du khách sẽ đi qua chợ Mía, ngôi
chợ nhỏ, để người dân buôn bán nông sản.
Ghé
vào quán của một cụ bà, ngắm cổng tam quan đơn giản, mộc mạc được tán
cây đa già che chở, hẳn nhiều người đều có cảm giác dường như mảnh đất
này không hề chịu tác động từ thế giới bên ngoài. Chùa Mía giản dị ngay
từ cái nhìn đầu tiên, để du khách khi bước vào mới thấy vẻ đẹp này mấy
nơi có được. Chùa Mía không ồn ào bởi nhiều dịch vụ trong cúng lễ như ở
các đền chùa khác, không sơn son thếp vàng như những ngôi chùa phương
Nam, đặc biệt là có một số lượng lớn tượng cổ.
Cấu
trúc chùa Mía gồm các tòa tam quan, chính điện, thượng điện, nhà tổ,
hành lang san sát, nối kề nhau theo hình chữ Mục. Bước qua cổng Tam
quan, nhìn sang bên phải, du khách sẽ nhìn thấy cây đa cổ, gốc to khít
vòng tay mấy người ôm, rễ cây rắn chắc nổi lên trên mặt đất. Đối đỉnh
với ngọn đa già là tòa bảo tháp cử phẩm Liên hoa. Tòa tháp này mới được
xây dựng để thờ vọng Xá lợi Phật. Đây cũng là ngọn Tháp bút, Kính
thiên, được coi là trấn giữ cho mạch âm của làng quê được an lành và
phát triển. Đi vào bên trong là khu nội điện gồm tiền đường, đại hùng,
bảo điện, thượng điện được cấu trúc theo kiểu “Nội công ngoại quốc” rất
bề thế.
Thắp
hương ở đền chính rồi cứ thế men theo những hành lang nối dài, ban thờ
này nối tiếp ban thờ kia, không bao giờ phải quay lưng lại ban thờ
nào. Cảm giác uy nghiêm, bao bọc linh thiêng của chốn Phật đường, dễ
dàng tạo cảm giác yên bình, tĩnh tại. Phía trái tiền đường có một tấm
bia cao ngang đầu người đặt lên lưng một con rùa đá lớn, có niên đại từ
thời Đức Long năm thứ 6 (1632) đời Lê. Tấm bia ghi lại công trạng của
Bà Chúa Mía đã dựng chùa ra sao. Tấm bia được coi là to lớn và cổ xưa
nhất còn lưu giữ đến ngày nay.
Tháng
5-2006, Thành hội Phật giáo TP.HCM kết hợp với Trung tâm Sách kỷ lục
Việt Nam công bố 10 kỷ lục văn hóa Phật giáo Việt Nam, trong đó có Chùa
Mía là nơi lưu giữ nhiều tượng nghệ thuật nhất Việt Nam. Ở đây có đến
287 pho tượng thờ, trong đó có 174 tượng bằng đất nung sơn son thếp
vàng, 107 tượng mộc và sáu pho tượng bằng đồng.
Những
pho tượng nổi tiếng là tác phẩm điêu khắc sinh động như: tượng Tuyết
Sơn, tượng Di Lặc, tượng Bát Bộ Kim Cương… Tượng Tuyết Sơn cao 0,76m,
không to lớn và nổi tiếng như tượng Tuyết Sơn ở chùa Tây Phương, nhưng
cũng được điêu khắc, chạm trổ rất tinh xảo. Tám pho tượng làm bằng đất
nung ở tòa thượng điện lại đặc biệt nổi bật với hình khối, bố cục vững
chắc, thân hình khỏe khoắn, hài hòa, thể hiện con mắt và bàn tay tinh
xảo của những nghệ nhân xưa.
Trái
với những đường nét chạm khắc đầy oai nghiêm trên bức tượng Bát Bộ Kim
Cương là tượng Quan Âm Thị Kính với những đường nét mềm mại, uyển
chuyển và tinh xảo. Tượng miêu tả một người phụ nữ thùy mị, gương mặt
phúc hậu, bế đứa nhỏ bụ bẫm, kháu khỉnh.
Hàng tượng La Hán.
Chùa
Mía không rộng và đông đúc khách thập phương đến viếng như chùa Tây
Phương, chùa Hương hay những ngôi chùa nổi tiếng khác. Ghé thăm chùa vào
những ngày đầu xuân, vẫn thấy chùa yên tĩnh, cổ kính như ngày thường.
Khách viếng chùa không ồn ào, chen chúc. Khói hương không nghi ngút,
thoảng trong không gian tĩnh mịch là tiếng chuông chùa văng vẳng. Người
dân ở đây hiền lành quá, chẳng ai dám phá vỡ khung cảnh tĩnh mịch của
ngôi chùa cổ linh thiêng.
Từ
chùa Mía, du khách đi bộ khoảng 300m là tới một ngôi đền mà các cụ bán
hàng trước cổng gọi là đền Mẫu. Người dân đi lễ chùa Mía ngày xuân
thường sang đây xin một quẻ thẻ đầu năm lấy may, rồi xin bảng thẻ theo
số quẻ thẻ rút được. Không có thầy giải quẻ, nhưng ai nấy đều tự luận
bảng giải, cũng là niềm tin tưởng về một năm nhiều tài lộc, may mắn.
Đình Mông Phụ
Theo lời kể của các cụ già trong làng thì đình được xây dựng từ năm
1553 dưới thời vua Lê Thần Tông đình thờ Đức Thánh Tảng - đệ nhất phúc
đẳng thần -một vị đứng đầu trong tứ bất tử của người Việt. Và đến đời
vua Tự Đức thứ 12, năm Kỷ Mùi 1859 đình được mở rộng, xây thêm đình
ngoài và hai nhà tả hữu mạc ở hai bên, xây tường hoa xung quanh và bốn
cột trụ trước cửa, có đắp câu đối và phù điêu nổi hình tạo thành một
khối kiến trúc hoàn chỉnh và khép kin.
Cổng đình
Nhà đại bái
Cột trụ
Bức hoành phi với bốn chữ "Dũng - Cảm - Cả - Tưởng"
Đình ngoài với kết cấu "chồng giường - giá chiêng"
Cổng đình
Đình
Mông Phụ có quy mô lớn nhất xã Đường Lâm.được tọa lạc ngay trong trung
tâm làng Mông phụ .Theo lời của cụ Phan Văn Tích (xóm Hề, thôn Mông
Phụ, xã Đường Lâm) -một người trông coi đình làng nhiều năm cho biết:
Đình tọa lạc ở vị trí đầu rồng nằm hai bên hông đình còn có hai cái
giếng cổ được coi như mắt rồng.
Nhà đại bái
Đình
gồm có hai toà đại bái và hậu cung, một gian hai chái lớn và cả hai
toà nhà đều được làm theo kiểu 4 lá mái với họa tiết trang trí bay bổng
hình mây cuộn. rồng bay.Đình được lợp bằng ngói di xếp vảy cá. Trên
thân các cột xà, thanh xà đều được trạm khắc hết sức tinh sảo với họa
tiết đầu rồng, tứ linh, tứ quý, chim phượng . Có thể nói đây chính là
hình mẫu tiêu biểu cho nghệ thuật chạm khắc trên gỗ hết sức tinh vi của
người Việt cổ. Cụ Phan Văn Tích có kể lại rằng những tác phẩm điêu
khắc độc đáo, tinh vi trong đình là của cụ Mục Hùng -một người thợ cả
tài hoa, có bộ óc sáng tạo và có đôi bàn tay vàng, ông đã có công trực
tiếp vẽ mẫu và hướng dẫn nhóm thợ mộc làng Mía xây dựng ngôi Đình này.
Điêu khắc hình đầu rồng
Ngôi
đình được xây dựng mang đậm dấu ấn của lối kiến trúc Việt – Mường, có
sàn gỗ cách mặt đất, mô phỏng kiến trúc nhà sàn, gỗ lát sàn trước là gỗ
ba phân có nẹp gian, sau này được tu bổ lại và đổi thành gỗ bốn phân
không có nẹp gian.Sàn nhà còn có lan can tiện gỗ bao quanh.
Sàn nhà được bao quanh bởi hàng rào gỗ
Nhà
Đại bái của Đình được dựng bởi bốn mươi tám cột gỗ, mỗi cột có đường
kính tầm 50-60 phân trên có trạm khắc nhiều hoa văn hình rồng bay,
phượng múa. Tuy nhiên, do sư bào mòn của thời gian mà những họa tiết mày
đã mờ dần.Đa số các cột trụ trong đình đều đã được thay mới do hầu hết
chúng đã bị mối mọt và hư hỏng nặng.
Cột trụ
Đình
Mông Phụ còn được trang trí bởi rất nhiều bức hoành phi,câu đối tiêu
biểu như bức hoành phi “lão long huấn tử” (rồng già dạy con) hay bức
hoành phi với 4 chữ “Dũng cảm cả tưởng” do vua Thành Thái ban tặng cho
Làng sau một trận săn bắt cướp.
Bức hoành phi với bốn chữ "Dũng - Cảm - Cả - Tưởng"
Đình
ngoài có 5 gian và 2 chái. Kết cấu bên trong theo lối “chồng giường-
giá chiêng”. Đây là kiểu kiến trúc truyền thống rất phổ biến của nghệ
thuật kiến trúc đình cổ của dân tộc.Đình ngoài thường là nơi tụ họp của
bà con dân làng những lúc nông nhàn ngồi chơi vãn chuyện hay khi có
việc làn, hội đình.
Đình ngoài với kết cấu "chồng giường - giá chiêng"
Bao
quanh đình là một hệ thống hàng rào xây bằng đá ong , loại đá đặc
trưng trong việc xây dựng các công trình kiến trúc tại khu vực này.
Hàng rào đá ong này đã mang lại cho ngôi đình một nét trầm mặc cổ
kính,một nét đẹp không giống bất cứ ngôi đình nào trên đất nước Việt
Nam.
Chính lối kiến trúc cổ truyền và đặc sắc của đình Mông Phụ
mà vào ngày 20/5/1991 đình làng Mông Phụ được Bộ Văn Hóa Thông Tin
công nhận là di tích quốc gia cần được bảo tồn.Nhà nước đã đầu tư 11
tỉ đồng cho việc trùng tu và tôn tạo Đình làng, với mục đích là gìn giữ
những di sản văn hóa vô giá của dân tộc . Đình được tu sửa trong vòng 3
năm từ 2004-2007.Đình Mông Phụ không chỉ có một ý nghĩa tinh thần to
lớn đối với con người của mảnh đất này mà nó còn có một giá trị sâu sắc
đối với mỗi người Việt Nam yêu quý những giá trị văn hóa truyền thồng
của dân tộc.Có thể nói đình Mông Phụ chính là tinh hoa của kiến Trúc
Việt.
Món ngon nơi đây bạn nên thưởng thức:
Kẹo dồi, kẹo lạc, kẹo vừng
Theo
tương truyền thế kỉ XVII Bà Chúa Mía (là cung phi của Chúa Trịnh Tráng)
đứng ra hưng công xây dựng lại Chùa Mía và dạy người dân làng Đường Lâm
cách trồng mía nấu kẹo. Vị ngọt của nguyên liệu đường từ cây mía đã
được nhân dân sáng tạo ra các loại kẹo như: kẹo lạc, kẹo dồi, kẹo vừng
và trở thành sản phẩm truyền thống của làng Đường Lâm.
Kẹo Dồi
Kẹo Lạc
Chè kho
Món
chè kho là một món "Mời chào" du khách khi về với làng cổ Đường Lâm.
Nếu nhâm nhi kẹo dồi thấy ngon miệng, bạn đừng ăn quá tham, hãy dành
bụng để thử vài miếng chè kho tuyệt ngon nơi đây.
Bánh rán nước
Nguyên
liệu chính làm nên món bánh rán nước là gạo nếp, đỗ xanh, quả dành
dành, đường và dừa nạo. Để tạo nên vị đặc trưng riêng của bánh rán nước,
người làm bánh phải chọn lọc các nguyên liệu chuẩn, công đoạn làm bánh
đòi hỏi sự khéo léo, tỷ mỉ.
Gạo
nếp làm bánh phải chọn nếp cái hoa vàng ngâm nước trừng vài tiếng xong
đem đi xay bột nước. Đỗ xanh cũng phải ngâm qua nước rồi đồ lên xong giã
nhuyễn trộn đường. Một trong những nguyên liệu để tạo nên sự khác biệt
của món bánh rán nước đó chính là quả dành dành, cho quả dành dành ngâm
với nước ấm khi nước có màu vàng rồi đem trộn với bột gạo nếp. Đun nước
đường lên, cho bánh vào tầm 3 phút thì vớt ra giắc dừa nạo lên trên
chúng ta sẽ được món bánh rán nước thơm ngon đặc trưng của vùng đất Xứ
Đoài.
Tương
Làng
cổ Đường Lâm vốn nổi tiếng với nghề làm tương... Du khách về đây có thể
được thưởng thức những món ăn dân dã cùng gia chủ như kẹo dồi, mía mật,
chè tươi Cam Lâm, gà Mía. Và trong mâm cơm đãi khách của người Đường
Lâm bao giờ cũng có bát tương ngọt lịm, thơm lừng.
Thịt quay đòn
Nếu
đã một lần ghé thăm Đường Lâm, đừng quên thưởng thức hương vị đậm đà
của món thịt quay đòn nức tiếng thơm ngon của người dân nơi đây.
Sở
dĩ nói vậy vì không phải chỉ cần 1 2 tiếng là làm xong món thịt này,
với một miếng thịt ba chỉ khoảng 1 kg, phải quay mất 6 tiếng mới ra
thành phẩm. Vậy nếu muốn thưởng thức món thịt đặc biệt này, mà không
muốn chờ đợi lâu, bạn nên "phím" trước chủ nhà.
Món
thịt quay đòn này được chế biến rất cầu kỳ, qua rất nhiều khâu. Đầu
tiên là khâu chọn thịt. Miếng thịt dùng nướng phải là thịt lợn tươi,
phần ba chỉ có bì dày, lớp thịt, lớp mỡ đan xen đều nhau đúng như "ba
chỉ". Một đầu bếp ở làng đường Lâm tiết lộ, anh phải đặt riêng loại thịt
ba chỉ này ở lò mổ để người chủ lọc cả phần thịt sườn như thế miếng ba
chỉ mới dày thịt, thịt giòn, thơm.
Bánh tẻ
Bánh
tẻ những nơi khác gói bằng lá chuối, gói khum khum thể hiện tính âm
dương và phát triển của vũ trụ. Nhưng bánh Đường Lâm lại được gói bằng
lá dong, nhân trải đều, dài, theo dọc sống lá. Bánh ở nơi khác thường có
kiểu: ruột ít nhiều lá, nhưng bánh tẻ Đường Lâm thì ngược lại. Một lượt
lá dong tươi bên trong để tạo mùi thơm đặc trưng. Không lá đùm lá và ít
nhân như mọi người vẫn nghĩ về bánh lá.
Bánh
tẻ có mùi thơm của lá dong, lá chuối khô, nhân bánh được làm bằng thịt
nạc vai hoặc ba chỉ bỏ bì, mọc nhĩ. Tất cả mọi người đều có thể ăn, có
thể ăn chơi, ăn no, ăn bất cứ ở đâu cũng ngon.
Chè lam
Chè
Lam Đường Lâm một đặc sản ẩm thực dân dã, từ lâu đã có sức hút đối với
người tiêu dùng bởi sự kết hợp hài hòa của các sản vật thân thuộc từ
đồng đất quê hương. Đặc biệt, với những người con xứ Đoài ở xa, khi được
thưởng thức phong chè lam – món quà quê cùng với chén nước trà nóng, sẽ
cảm nhận rõ hơn vị quê hương nồng ấm, đậm đà ẩn trong hương nếp, mật
mía lẫn vị gừng cay sâu nặng tự thuở nào.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét