Cột Cờ:
Cột cờ là một trong những công trình kiến trúc thuộc khu vực thành cổ Hà Nội còn nguyên vẹn.
Cột cờ nằm trong khuôn viên Bảo tàng Quân đội, đường Điện Biên Phủ, phường Điện Biên, quận Ba Đình.
Xây
dựng năm 1812 dưới triều vua Gia Long, cột cờ gồm ba tầng bệ, thân cột
và hệ thống cầu thang xoáy bên trong. Ba tầng dưới là ba khối vuông xây
chồng lên nhau từ to đến nhỏ, trên cùng là thân cột cao chừng 20 m, hình
lục lăng, có trổ các cửa hoa nhỏ để tạo không khí và ánh sáng cho bên
trong. Đỉnh cột hình bát giác, có trụ để cắm cờ, trèo lên đỉnh cao nhất
sẽ bao quát được toàn bộ khu vực xung quanh.
Hồ Trúc Bạch:
Hồ
Trúc Bạch cách Hồ Tây bởi con đường Thanh Niên. Đường Thanh Niên có từ
năm 1957 - 1958 theo ý kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau khi hồ được
thanh niên học sinh Hà Nội lao động trong những ngày thứ bảy cộng sản mở
rộng như ngày nay. Trước gọi là đường Cổ Ngư, hình thành từ một con đê
hẹp được đắp ngăn một góc Hồ Tây.
Hồ Trúc Bạch có
từ thế kỉ XVII khi dân hai làng Yên Hoa (nay là Yên Phụ) và Yên Quang
(nay là phố Quán Thánh) đắp con đê ngăn góc đông nam Hồ Tây để nuôi bắt
cá. Từ khi thành một hồ biệt lập, hồ đã đi vào thư tịch cổ. Sách "Tây Hồ
chí" cho biết nguyên ở phía nam hồ có làng Trúc Yên, có nghề làm mành,
do đó nhà nào cũng trồng trúc, trúc mọc như rừng. Thời chúa Trịnh Giang
(1729 - 1740) xây ở đây một cung điện gọi là Viện Trúc Lâm. Về sau, viện
trở thành nơi giam cầm những cung nữ có lỗi, phải dệt lụa để mưu sinh.
Lụa đẹp, bóng bẩy, nổi tiếng khắp kinh thành, gọi là lụa làng Trúc.
Ven
hồ Trúc Bạch có nhiều di tích lịch sử và công trình kiến trúc đặc sắc
như đền Quán Thánh ở ngay góc tây nam hồ. Phía đông có chùa Châu Long
(phố Châu Long), tương truyền xây từ thời Trần, là nơi tu hành của công
chúa con vua Trần Nhân Tông. Có đền An Trì, nơi thờ Uy Đô, một anh hùng
chống quân Nguyên.
Ba phía chung quanh hồ phố xá
che khuất, chỉ có phía tây giáp đường Thanh Niên mới bày ra vẻ đẹp êm ả
phẳng lặng của mặt hồ. Phía bắc hồ có một gò đất nhỏ, trên gò có đền thờ
Cẩu Nhi gắn với chuyện Lý Công Uẩn dời đô.
Hồ
Trúc Bạch cùng với công viên Lý Tự Trọng và Hồ Tây tạo thành một tổng
thể thiên nhiên hài hoà, làm thành một thắng cảnh đẹp của thủ đô Hà Nội.
Phủ Chủ tịch:
Phủ
Chủ tịch là toà nhà bốn tầng nhìn ra đường Hùng Vương, được xây dựng
năm 1901. Thời Pháp thuộc, đây là nơi ở và làm việc của Toàn quyền Pháp ở
Đông Dương (có tên là Phủ Toàn quyền). Hiện nay, địa điểm này là nơi
các vị đứng đầu Nhà nước ta tiếp đón các đoàn khách quan trọng nước
ngoài và là nơi để các đại sứ các nước đến trình quốc thư.
Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì nhiều cuộc họp Hội đồng Chính phủ.
Quảng trường Ba Đình:
Hà
Nội là trái tim của nước Việt Nam, Quảng trường Ba Đình là trái tim của
Hà Nội. Tại đây đã diễn ra những sự kiện trọng đại của thủ đô và cả
nước. Ngày trước, đây vốn là khu vực cửa tây của thành Hà Nội cổ. Thực
dân Pháp phá thành làm một vườn hoa nhỏ gọi là điểm tròn Puy-gi-ni-nơ.
Năm 1945 mới có tên là vườn hoa Ba Đình. Chữ Ba Đình là để gợi nhớ dải
đất Ba Đình ở tỉnh Thanh Hoá, nơi đã nổ ra cuộc khởi nghĩa chống Pháp
kéo dài từ tháng 9 -1886 đến tháng 1-1887.
Quảng
trường là nơi chứng kiến hàng trăm nghìn người về dự lễ Độc lập ngày
2-9-1945. Ngày 9-9-1969, sáu ngày sau khi Hồ Chủ tịch qua đời, tại Quảng
trường này, đồng bào thủ đô và các địa phương cùng 34 đoàn đại biểu
quốc tế đã tới đây dự lễ truy điệu trọng thể vị Anh hùng giải phóng dân
tộc Việt Nam, nhà văn hoá kiệt xuất.
Ngày nay, mặt
chính của quảng trường là Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trước lăng là
khoảng không gian rộng lớn với 320m chiều dài và 100m chiều rộng, đủ chỗ
cho 200 nghìn người dự mít tinh. Quảng trường có 168 ô cỏ bốn mùa xanh
tươi. Chính giữa là cột cờ. Quảng trường Ba Đình đã trở thành không gian
thiêng liêng của thủ đô Hà Nội.
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Lăng
là nơi giữ gìn thi hài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có mặt chính nhìn ra
Quảng trường Ba Đình lịch sử. Đây là kết quả lao động sáng tạo của các
nhà khoa học Nga và Việt Nam. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là nơi an nghỉ
vĩnh hằng của người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Lăng chính thức
được khởi công ngày 2/9/1973, tại vị trí của lễ đài cũ giữa quảng
trường Ba Đình, nơi Bác Hồ đã từng chủ tọa các cuộc mít tinh lớn.
Lăng
được khánh thành vào ngày 29/8/1975. Toàn bộ khu di tích lăng Chủ tịch
Hồ Chí Minh rộng 14ha. Lăng cao 21,6m gồm ba lớp. Lớp dưới tạo dáng bậc
thềm là lễ đài dành cho Đoàn Chủ tịch trong các cuộc mít tinh. Lớp giữa,
phần trung tâm của lăng gồm phòng thi hài và những hành lang, cầu thang
lên xuống. Quanh bốn mặt là những hàng cột vuông ốp đá hoa cương, nhìn
từ bên ngoài, mặt nào cũng thấy năm khoảng đều nhau, gợi nhớ ngôi nhà
năm gian truyền thống Việt Nam. Lớp trên cùng là mái lăng hình tam cấp
bằng đá hồng ngọc mầu mận chín. Nhìn tổng thể lăng có hình bông hoa sen
cách điệu.
Trước mặt lăng có cột cờ cao 30m. Hàng
tre ngà hai bên biểu tượng hình ảnh làng quê Việt Nam. Hai bên trái và
phải ở mặt trước lăng được trồng 18 cây vạn tuế (mỗi bên chín cây). Vào
gần hơn, hai bên cửa lăng là hai cây đại, tượng trưng cho sự trong sáng,
thanh cao của Bác Hồ.
Ở mặt chính lăng có dòng
chữ Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng đá hồng ngọc màu mận chín. Hai bên lăng là
vườn cây, hoa quả tiêu biểu của các vùng quê Việt Nam bốn mùa tươi tốt,
quần tụ toả bóng mát và trổ hoa.
Bước vào phòng
ngoài, trước mặt trên tường đá hoa cương màu đỏ sẫm có hàng chữ vàng óng
ánh "Không có gì quí hơn độc lập tự do", dưới đó là chữ ký quen thuộc
của Bác.
Lên hết cầu thang là tới phòng thi hài,
nơi Bác an nghỉ. Phía đầu Bác nằm, trên nền tường ốp đá trắng gắn nổi
hình cờ Đảng và cờ Tổ quốc. Hòm kính có thi hài Bác bên trong đặt trên
đài hoa đước ghép bằng đá đen huyền lấp lánh muôn ngàn hạt sáng. Cách bố
trí lối đi từ ba phía cho phép mọi người chiêm ngưỡng Bác được lâu hơn,
lối đi rộng, nên nhiều người cùng lúc đều được nhìn thấy Bác. Qua lớp
kính trong suốt, Bác như vừa ngả lưng chợp mắt. Vẫn bộ quần áo ka-ki bạc
mầu, dưới chân Bác vẫn là đôi dép cao su giản dị.
Lăng
Chủ Tịch Hồ Chí Minh là nơi an nghỉ vĩnh hằng của Người, là biểu tượng
lòng tôn kính và biết ơn vô hạn của dân tộc Việt Nam đối với lãnh tụ của
mình.
Nhà sàn Bác Hồ:
Trong
khu vườn rộng sau Phủ Chủ tịch, có một con đường hẹp trải sỏi, hai bên
trồng xoài dẫn tới một ngôi nhà sàn nhỏ nhắn bình dị, nằm giữa những vòm
cây. Hàng rào dâm bụt bao quanh nhà, cổng vào kết bằng cành cây đan xen
nhau. Đó là ngôi nhà Bác Hồ ở và làm việc từ ngày 17-5-1958 cho tới khi
Người qua đời.
Tầng dưới nhà sàn là nơi Bác
thường họp với Bộ Chính trị. Tầng trên là hai phòng nhỏ, nơi Bác làm
việc và phòng ngủ với những vật dụng đơn sơ giản dị. Trước nhà là ao cá
Bác nuôi, bên bờ ao là các loài hoa phong lan nở quanh năm.
Nhân
dân từ mọi miền đất nước cũng như du khách quốc tế đến thủ đô Hà Nội,
ai cũng muốn đến viếng lăng, thăm nhà ở của Bác và đi dạo quanh Quảng
trường Ba Đình lịch sử.
Sau nhà là vườn quả với
hàng trăm loài cây quý do các địa phương đưa về trồng, như cây vú sữa
của đồng bào miền nam gửi biếu Bác năm 1954, bưởi Phúc Trạch, Biên Hòa,
Mê Linh; cam Hải Hưng, Xuân Mai, Vân Du, Xã Đoài; quýt Hương Cần, Lý
Nhân; táo Thiện Phiến, Ngọc Hồ; song mai Đông Mỹ; hồng Tiên Điền (quê
hương nhà thơ Nguyễn Du). Trong vườn còn có cả những loại cây từ nước
ngoài như ngân hoa, cây bụt mọc quanh ao, cây cau vua gốc từ Caribê.
Hãy thưởng thức những món ngon Hà Nội vào thu
Khi
tiết trời mát mẻ ngày thu ùa về cũng là lúc các món ăn dường như ngon
hơn, dễ "vào" hơn. Nhiều món ngon Hà Nội vào thu bạn nhớ thưởng thức.
1. Cốm
Cứ mỗi độ thu về, người Hà Nội lại náo nức chờ món cốm non xanh thơm dịu
cả lòng. Cốm được bán trên các mẹt hàng trên khắp được phố, gói trong
lớp lá mướt như dấu hiệu rõ ràng nhất báo hiệu thu về. Cốm là một trong
những món ngon Hà Nội nức lòng du khách.
Cốm ngon nhất phải kể đến
cốm làng Vòng. Cùng với những mẹt cốm, các biến tấu với cốm xanh cũng
được người dân Hà Thành yêu thích như chuối chấm cốm, chè cốm, bánh cốm,
chả cốm… dẻo thơm.
2. Bánh dẻo, bánh nướng
Một trong những ngày lễ quan trọng nhất của các nước châu Á mỗi dịp thu
về là tết trung thu. Đây là dịp các gia đình nô nức mua bánh nướng, bánh
dẻo về cúng tổ tiên và cùng chung vui bên chén trà mạn. Bánh dẻo ngày
nay có nhiều biến tấu nhưng được ưa thích nhất vẫn là những loại bánh
làm theo phong cách truyền thống.
3. Hồng
Tháng 8 âm lịch là thời điểm hồng chín rộ, là loại quả đặc trưng cho bàn
tiệc ngắm trăng của người Việt. Hồng vàng giòn, đã miệng, hồng đỏ hơi
nhũn nhưng lại rất ngọt, mát, vừa đẹp mắt, ngon miệng, vừa bổ sung
vitamin, beta-carotene.
4. Bưởi
Cũng là một loại quả đặc trưng của mùa thu, quả bưởi chua chua, ngọt
ngọt, chấm ít muối ớt khiến ai cũng thèm rỏ dãi. Quả bưởi với những tép
mọng nước chứa nhiều vitamin C, dưỡng chất cho da và tóc lại có thể
trang trí thành những chú chó bưởi bày bàn tiệc đẹp mắt.
5. Sấu chín
Những trái sấu chín vàng gọt thành vòng, chấm muối ớt hay sấu chín dầm
là đặc sản thu Hà Nội khiến ai đi xa cũng nhớ nao lòng. Vì sấu chua
chua, ngọt ngọt, không quá như sấu xanh, quả cũng căng tròn, mọng nước
hơn, là món ăn trong ký ức mỗi người về mùa thu chốn thủ đô Hà Nội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét