Quận Hai Bà Trưng
Ô Cầu Dền xưa, nay là ngã tư Trần Khát Chân-Đại Cồ Việt.
|
Quận Hai Bà Trưng nằm ở phía Đông Nam nội thành Hà Nội, là địa bàn có vinh dự được mang tên hai vị Nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc: Hai Bà Trưng Trắc và Trưng Nhị.
Vị trí địa lý:
Quận Hai Bà Trưng phía Đông giáp sông Hồng, qua bờ sông là quận Long Biên; phía Tây giáp quận Đống Đa và một phần nhỏ giáp quận Thanh Xuân; phía Nam giáp quận Hoàng Mai; phía Bắc giáp quận Hoàn Kiếm.
Diện tích tự nhiên: 9,62km²
Dân số: 378.000 người (năm 2009)
Đến với quận Hai Bà Trưng Hà Nội bạn có thể dễ dàng chọn được những khách sạn ưng ý. Ví dụ như khách sạn Elegant
Mang phong cách thanh lịch, tao nhã đặc trưng của người Hà Nội, Elegant Hotel được nhận xét là một trong những khách sạn tiêu biểu nhất về phong cách phục vụ.
Elegant
Hotel được đánh giá cao trên các phương tiện truyền thông và nhận được
vô số lời khen ngợi của cả khách trong và ngoài nước. Được Công ty
TNHH 1 thành viên dịch vụ Thương mại dầu khí Hà Nội
đầu tư về cơ sở vật chất, Elegant Hotel có tổng cộng 22 phòng, 6 tầng
với hệ thống bar và nhà hàng hiện đại, thêm vào đó, sự đầy đủ tiện nghi
trong các phòng nghỉ của khách sạn như wifi, hệ thống máy lạnh, thang
máy…. đã góp phần đảm bảo sự thoải mái cho Quý khách khi lựa chọn nghỉ
tại đây.
Với
30% lượng khách nước ngoài cùng những yêu cầu khắt khe trong việc phục
vụ, Elegant Hotel không bao giờ tự thỏa mãn với những điều sẵn có và
luôn tự đổi mới, bồi dưỡng thêm phong cách đặc trưng của mình.
Ngoài ra bạn có thể chọn những khách sạn tại Hà Nội phù hợp với mình.
Ngoài ra bạn có thể chọn những khách sạn tại Hà Nội phù hợp với mình.
Các địa điểm tham quan du lịch tại Hà Nội
Hồ Hoàn Kiếm:
Đẹp
như một lẵng hoa giữa lòng thành phố, hồ Hoàn Kiếm được bao quanh bởi
các đường phố Đinh Tiên Hoàng, Lê Thái Tổ, Hàng Khay. Ba con phố này dài
khoảng 1.800m. Mặt nước hồ là tấm gương lớn soi bóng la đà những cây cổ
thụ, những rặng liễu thướt tha tóc rủ, những mái đền, chùa cổ kính,
tháp cũ rêu phong, các toà nhà mới cao tầng vươn lên trời xanh.
Trước
đây hồ có tên là Lục Thủy vì sắc nước bốn mùa xanh trong. Thế kỉ XV, hồ
Lục Thủy đổi tên là hồ Hoàn Kiếm (trả gươm), gọi tắt là hồ Gươm. Cái
tên Hoàn Kiếm gắn liền với câu chuyện trả gươm cho rùa vàng của vua Lê
Thái Tổ.
Rùa là một trong bốn vật linh (Long, ly,
quy, phượng) trong tâm thức văn hoá dân gian. Giống rùa quý này vẫn còn
sinh sống trong lòng hồ, hằng năm có đôi lần nhô lên mặt nước. Thật hạnh
phúc cho du khách nào nhìn thấy rùa nổi trên mặt hồ.Trong hồ có hai đảo
nổi. Đảo lớn là đảo Ngọc ở phía bắc hồ, gần bờ đông, có cầu Thê Húc sắc
đỏ uốn cong nối ra đảo. Đảo Rùa nhỏ hơn, trên có ngọn tháp cổ ở phía
nam hồ, giữa bốn bề lung linh bóng nước.Hồ Hoàn Kiếm là nơi hội tụ, điểm
hẹn của du khách bốn mùa:
- Mùa xuân đậm đà lễ hội truyền thống và rực rỡ sắc hoa đào.
- Mùa hạ ùa ra từng cơn gió lồng lộng, quạt đi cái oi bức của phố phường râm ran tiếng ve.
- Mùa thu với màn sương huyền ảo, dáng liễu mơ hồ như thực, như hư.
- Mùa đông, lá vàng trải thảm, những giọt mưa phùn bay lất phất mang theo hơi lạnh.
Đền Ngọc Sơn:
Đền
được xây dựng trên đảo Ngọc, trong hồ Hoàn Kiếm cùng với Tháp Bút, Đài
Nghiên, cầu Thê Húc (cầu đậu nắng ban mai), lầu Đắc Nguyệt (lầu được
trăng), đình Trấn Ba (đình chắn sóng) và đền chính hợp thành cụm di tích
lịch sử kiến trúc - nghệ thuật và danh lam, thắng cảnh tiêu biểu của
thủ đô.
Đảo Ngọc Sơn xưa được gọi là Tượng Nhĩ
(tai voi), vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đặt tên là Ngọc Tượng,
đến thời Trần đổi thành Ngọc Sơn. Truyền thuyết kể rằng, ở gò trong hồ
đá, có các tiên nữ thường về đây múa hát. Thời vua Lê, Chúa Trịnh xây
cung Khánh Thụy ở Ngọc Sơn làm nơi vui chơi. Cuối thời Lê, xây chùa Ngọc
Sơn thờ Phật. Đến thời Nguyễn, chuyển thành đền thờ Văn Xương - Đế
Quân, rồi lại phối thờ Lã Động Tân, Quan Đế (tức Quan Vân Trường), phật A
Di Đà và đặc biệt là tướng quân Trần Hưng Đạo. Điều này thể hiện quan
niệm Tam giáo đồng nguyên của người Việt.
Năm Tự
Đức thứ mười tám (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu bổ lại đền.
Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá chung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc
một cầu từ bờ đông đi vào gọi là cầu Thê Húc.
Trên
núi Độc Tôn cũ, ông cho xây một tháp đá, đỉnh tháp hình ngọn bút lông,
thân tháp có khắc ba chữ "Tả Thanh Thiên" (viết lên trời xanh), ngày nay
thường gọi đó là Tháp Bút. Tiếp đến là một cửa cuốn gọi là Đài Nghiên,
trên có đặt một cái nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ đôi theo
chiều dọc, có hình ba con ếch đội. Trên nghiên có khắc một bài minh nói
về công dụng của cái nghiên mực xét về phương diện triết học. Người đời
sau ca ngợi là: Nhất đài Phương Đình bút.
Từ cổng
ngoài đi vào có hai bức tường hai bên, một bên là bảng rồng, một bên là
bảng hổ, tượng trưng cho hai bảng cao quý nêu tên những người thi đỗ,
khiến cho các sĩ tử đi qua càng gắng công học hành.
Tên
cầu Thê Húc nghĩa là giữ lại ánh sáng đẹp của mặt trời. Cầu Thê Húc dẫn
đến cổng đền Ngọc Sơn, còn gọi là Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng) dưới
bóng cây đa cổ thụ, ở giữa một vùng cây cối um tùm, trông như từ dưới
nước nhô lên.
Đền chính gồm hai ngôi nối liền
nhau, ngôi đền thứ nhất về phía bắc thờ Trần Hưng Đạo và Văn Xương.
Tượng đặt ở hậu cung trên bệ đá cao khoảng 1m, hai bên có hai cầu thang
bằng đá. Tượng Văn Xương đứng, tay cầm bút. Phía nam có đình Trấn Ba
(đình chắn sóng - ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng không lành
mạnh trong nền văn hoá đương thời). Đình hình vuông có tám mái, mái hai
tầng có tám cột chống đỡ, bốn cột ngoài bằng đá, bốn cột trong bằng gỗ.
Tuy
là một ngôi đền kiến trúc mới, song đền Ngọc Sơn là một điển hình về
không gian và tạo tác kiến trúc. Sự kết hợp giữa đền và hồ đã tạo thành
một tổng thể kiến trúc Thiên - Nhân hợp nhất, tạo vẻ đẹp cổ kính, hài
hoà, đăng đối cho đền và hồ, gợi nên những cảm giác chan hoà giữa con
người và thiên nhiên. Đền và hồ đã trở thành những chứng tích gợi lại
những hoài niệm về lịch sử dân tộc, thức tỉnh niềm tự hào chính đáng,
lòng yêu nước, cũng như tâm linh, ý thức mỗi người Việt Nam trước sự
trường tồn của dân tộc.
Tháp Hòa Phong:
Tháp đứng trên vỉa hè bên phía hồ Hoàn Kiếm đối diện với Trung tâm Ngoại vụ Bưu điện Hà Nội qua trục đường Đinh Tiên Hoàng.
Đây
là di vật còn sót lại của chùa Báo Ân, còn gọi là chùa Quan Thượng, một
quần thể kiến trúc Phật giáo nổi tiếng một thời. Nguyên là vào giữa thế
kỷ XIX ở chỗ này và toàn thể khu vực trung tâm Bưu điện có một ngôi
chùa lớn. Khuôn viên hình tám cạnh gồm hai chục nếp nhà, nhà thờ Phật,
nhà thờ Mẫu, nhà in Kinh, nhà cho các sư ở, cả thảy trên một trăm gian,
bên trong trang trí rất tráng lệ. Ngoài chùa là hồ sen.
Trước
cửa chùa là ngọn tháp Hoà Phong. Chùa được xây dựng vào năm 1846 theo
sáng kiến của Quan Thượng (chức quan đứng đầu tỉnh Hà Nội) Nguyễn Đăng
Giai.
Năm 1898, cùng với đà mở mang xây dựng đường
phố mới, chùa bị phá hủy, chỉ còn ngọn tháp Hòa Phong. Đây là một loại
tháp hiếm có ở Hà Nội, thuộc loại tháp bốn cửa, biến dạng của Stupa (một
loại hình tháp của Phật giáo Ấn Độ). Bốn mặt tầng hai có hình bát quái.
Bát quái ban đầu là công cụ chỉ phương hướng, theo vũ trụ quan Trung
Hoa. Tháp Hòa Phong là tổng hợp những quan niệm về vũ trụ của Phật giáo.
Chùa Một Cột:
Là
một cụm kiến trúc gồm ngôi chùa và tòa đài xây dựng giữa hồ vuông. Cả
cụm có tên là đài Liên Hoa. Đài này lâu nay quen gọi là chùa Một Cột,
hình vuông, mỗi bề 3m, mái cong, dựng trên cột đá hình trụ. Cột có đường
kính 1,20m; cao 4m (chưa kể phần chìm dưới đất) đỡ một hệ thống những
thanh gỗ tạo thành bộ khung sườn kiên cố đỡ cho ngôi đài dựng bên trên
khác nào một đóa hoa sen vươn thẳng trên khu ao hình vuông có lan can
bằng gạch bao quanh. Từ bên ngoài có lối nhỏ bằng gạch đi qua ao đến một
chiếc thang xinh xắn dẫn lên Phật đài. Trên cửa Phật đài có biển đề
"Liên Hoa đài" (Đài hoa sen) ghi nhớ sự tích nằm mộng của vua Lý dẫn tới
việc xây chùa.
Sử chép "Lý Thái Tông (1028 -
1054) chiêm bao thấy Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen, vua cũng được dắt
lên đó. Khi tỉnh giấc vua đem việc ấy hỏi các quan. Có người khuyên vua
làm chùa, dựng cột đá ở giữa ao, làm toà sen của Phật đặt trên cột như
đã thấy trong mộng. Cho các sư chạy đàn, tụng kinh cầu cho vua sống lâu,
vì thế gọi là chùa Diên Hựu (kéo dài cõi phúc)".
Việc
dựng chùa và đài hoa sen tiến hành vào năm 1049. Chưa rõ ngôi chùa như
thế nào, chứ qui mô Liên Hoa Đài thì một tấm bia cổ ngay từ đời Lý đã
ghi "...Đào hồ Linh Chiếu, giữa hồ vọt lên một cột đá đỉnh cột nở đóa
hoa sen nghìn cánh, trên sen dựng tòa điện màu xanh. Trong điện đặt pho
tượng Quan Âm. Vòng quanh hồ là dãy hành lang. Lại đào ao Bích Trì, mỗi
bên đều bắc cầu vòng để đi qua. Phía sân cầu đằng trước, hai bên tả hữu
xây tháp lưu ly" (Bia chùa Đọi ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam).
Như vậy, Liên Hoa Đài thời Lý lớn hơn ngày nay nhiều, cả những bộ phận hợp thành và hình dáng cũng phong phú hơn.
Trong
thực tế, cụm chùa Một Cột đã qua nhiều lần sửa chữa. Ngày 11-9-1954,
trước khi rút khỏi Hà Nội tạm chiếm, quân đội thực dân Pháp đã cho nổ
mìn phá huỷ Liên Hoa Đài.
Thành cổ Hà Nội:
Thành
cổ xưa nằm trong một khuôn viên khá rộng, phía tây giáp phường Hoàng
Diệu, phía đông giáp đường Nguyễn Tri Phương, phía nam giáp đường Trần
Phú, phía bắc giới hạn bởi phố Phan Đình Phùng, thuộc quận Ba Đình.
Năm
1010, vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, toà thành được xây
dựng và mở rộng ở các vương triều sau. Thành Thăng Long được qui hoạch
kiểu "Tam trùng thành quách" với ba vòng thành lồng nhau. Cấm thành, hay
Long Phượng thành thời Lý - Trần ở trong cùng, là khu vực hoàng cung.
Hoàng thành ở giữa bọc lấy khu kinh tế thị dân ở phía đông. Ngoài cùng
là dải La thành hay Đại La thành. Năm 1805, nhà Nguyễn xây thành Hà Nội
đã giữ lại khu vực Cấm thành làm hành cung cho vua ở mỗi khi tuần du
phía bắc. Thời Pháp, khi phá thành Hà Nội, nguời Pháp cũng giữ lại khu
này làm chỉ huy sở của quân đội.
Năm công trình
kiến trúc cổ còn sót lại sau khi Pháp phá thành Hà nội, tính từ phía nam
lên bắc gồm các hạng mục sau: Cột cờ, cửa Đoan Môn, nền điện Kính
Thiên, Hậu Lâu và cửa chính Bắc Môn.
Cửa Đoan Môn
là toà duy nhất còn được giữ lại trong tổng thể, bao gồm một vọng lầu có
hai tầng, lầu trên tám mái, dưới gồm một lối vào mở năm cửa lớn. Phía
trên cổng chính, mặt nam còn hàng chữ "Đoan Môn". Hiện nay Đoan Môn còn
tương đối nguyên vẹn.
Điện Kính Thiên, điện bị phá
năm 1886 để làm toà nhà ban chỉ huy pháo binh (quân đội Pháp). Hiện chỉ
còn lại những bậc thềm đá với hai hàng lan can rồng đá ở giữa, hai hàng
lan can đá chạm khắc hai bên ở phía nam, phía bắc cũng có một bậc thềm
trang trí rồng đá. Tam cấp ở điện Kính Thiên ở mặt nam có tất cả 10 bậc,
mặt bắc có bảy bậc do những viên đá lớn ghép lại.
Hậu
Lâu, còn gọi là Lầu công chúa, xây bằng gạch, phía dưới hình hộp, trên
là công trình kiến trúc ba tầng. Lầu dưới có ba tầng mái, lầu trên là
hai tầng mái.
Bắc Môn, có dạng hình thang mà hai
bên là hình tam giác, lòng hình vòm cuốn xây bằng gạch, mép cửa kè đá
hình chữ nhật, diềm trên bằng đá trang trí nền cánh sen. Phía bắc cửa có
tấm biển đá viết chữ Hán "Chính Bắc Môn". Bên cạnh phía phải cũng gắn
một tấm biển đá khắc ngày 25-4-1882 và hai vết đạn đại bác - dấu vết của
cuộc chiến tranh với Pháp. Cửa thành vẫn còn, Vọng Lâu ở trên nền cổng
thành đã bị phá. Thành phố đã làm lại Vọng Lâu để khôi phục lại vẻ đường
bệ, chững chạc vốn có của nó.
Năm điểm di tích
trên tuy quy mô kiến trúc không lớn, song cùng với những di tích còn nằm
lại dưới lòng đất minh chứng về một trung tâm chính trị, kinh đô của
đất nước suốt gần nghìn năm lịch sử.
Ở phía nam
thành cổ Hà Nội, còn lưu lại một phần kiến trúc của trường đại học đầu
tiên ở Việt Nam: Văn Miếu - Quốc Tử Giám khởi dựng vào đầu thế kỉ XI
dưới thời nhà Lý.
Cột Cờ:
Cột cờ là một trong những công trình kiến trúc thuộc khu vực thành cổ Hà Nội còn nguyên vẹn.
Cột cờ nằm trong khuôn viên Bảo tàng Quân đội, đường Điện Biên Phủ, phường Điện Biên, quận Ba Đình.
Xây
dựng năm 1812 dưới triều vua Gia Long, cột cờ gồm ba tầng bệ, thân cột
và hệ thống cầu thang xoáy bên trong. Ba tầng dưới là ba khối vuông xây
chồng lên nhau từ to đến nhỏ, trên cùng là thân cột cao chừng 20 m, hình
lục lăng, có trổ các cửa hoa nhỏ để tạo không khí và ánh sáng cho bên
trong. Đỉnh cột hình bát giác, có trụ để cắm cờ, trèo lên đỉnh cao nhất
sẽ bao quát được toàn bộ khu vực xung quanh.
Hồ Trúc Bạch:
Hồ
Trúc Bạch cách Hồ Tây bởi con đường Thanh Niên. Đường Thanh Niên có từ
năm 1957 - 1958 theo ý kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau khi hồ được
thanh niên học sinh Hà Nội lao động trong những ngày thứ bảy cộng sản mở
rộng như ngày nay. Trước gọi là đường Cổ Ngư, hình thành từ một con đê
hẹp được đắp ngăn một góc Hồ Tây.
Hồ Trúc Bạch có
từ thế kỉ XVII khi dân hai làng Yên Hoa (nay là Yên Phụ) và Yên Quang
(nay là phố Quán Thánh) đắp con đê ngăn góc đông nam Hồ Tây để nuôi bắt
cá. Từ khi thành một hồ biệt lập, hồ đã đi vào thư tịch cổ. Sách "Tây Hồ
chí" cho biết nguyên ở phía nam hồ có làng Trúc Yên, có nghề làm mành,
do đó nhà nào cũng trồng trúc, trúc mọc như rừng. Thời chúa Trịnh Giang
(1729 - 1740) xây ở đây một cung điện gọi là Viện Trúc Lâm. Về sau, viện
trở thành nơi giam cầm những cung nữ có lỗi, phải dệt lụa để mưu sinh.
Lụa đẹp, bóng bẩy, nổi tiếng khắp kinh thành, gọi là lụa làng Trúc.
Ven
hồ Trúc Bạch có nhiều di tích lịch sử và công trình kiến trúc đặc sắc
như đền Quán Thánh ở ngay góc tây nam hồ. Phía đông có chùa Châu Long
(phố Châu Long), tương truyền xây từ thời Trần, là nơi tu hành của công
chúa con vua Trần Nhân Tông. Có đền An Trì, nơi thờ Uy Đô, một anh hùng
chống quân Nguyên.
Ba phía chung quanh hồ phố xá
che khuất, chỉ có phía tây giáp đường Thanh Niên mới bày ra vẻ đẹp êm ả
phẳng lặng của mặt hồ. Phía bắc hồ có một gò đất nhỏ, trên gò có đền thờ
Cẩu Nhi gắn với chuyện Lý Công Uẩn dời đô.
Hồ
Trúc Bạch cùng với công viên Lý Tự Trọng và Hồ Tây tạo thành một tổng
thể thiên nhiên hài hoà, làm thành một thắng cảnh đẹp của thủ đô Hà Nội.
Phủ Chủ tịch:
Phủ
Chủ tịch là toà nhà bốn tầng nhìn ra đường Hùng Vương, được xây dựng
năm 1901. Thời Pháp thuộc, đây là nơi ở và làm việc của Toàn quyền Pháp ở
Đông Dương (có tên là Phủ Toàn quyền). Hiện nay, địa điểm này là nơi
các vị đứng đầu Nhà nước ta tiếp đón các đoàn khách quan trọng nước
ngoài và là nơi để các đại sứ các nước đến trình quốc thư.
Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì nhiều cuộc họp Hội đồng Chính phủ.
Quảng trường Ba Đình:
Hà
Nội là trái tim của nước Việt Nam, Quảng trường Ba Đình là trái tim của
Hà Nội. Tại đây đã diễn ra những sự kiện trọng đại của thủ đô và cả
nước. Ngày trước, đây vốn là khu vực cửa tây của thành Hà Nội cổ. Thực
dân Pháp phá thành làm một vườn hoa nhỏ gọi là điểm tròn Puy-gi-ni-nơ.
Năm 1945 mới có tên là vườn hoa Ba Đình. Chữ Ba Đình là để gợi nhớ dải
đất Ba Đình ở tỉnh Thanh Hoá, nơi đã nổ ra cuộc khởi nghĩa chống Pháp
kéo dài từ tháng 9 -1886 đến tháng 1-1887.
Quảng
trường là nơi chứng kiến hàng trăm nghìn người về dự lễ Độc lập ngày
2-9-1945. Ngày 9-9-1969, sáu ngày sau khi Hồ Chủ tịch qua đời, tại Quảng
trường này, đồng bào thủ đô và các địa phương cùng 34 đoàn đại biểu
quốc tế đã tới đây dự lễ truy điệu trọng thể vị Anh hùng giải phóng dân
tộc Việt Nam, nhà văn hoá kiệt xuất.
Ngày nay, mặt
chính của quảng trường là Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trước lăng là
khoảng không gian rộng lớn với 320m chiều dài và 100m chiều rộng, đủ chỗ
cho 200 nghìn người dự mít tinh. Quảng trường có 168 ô cỏ bốn mùa xanh
tươi. Chính giữa là cột cờ. Quảng trường Ba Đình đã trở thành không gian
thiêng liêng của thủ đô Hà Nội.
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Lăng
là nơi giữ gìn thi hài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có mặt chính nhìn ra
Quảng trường Ba Đình lịch sử. Đây là kết quả lao động sáng tạo của các
nhà khoa học Nga và Việt Nam. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là nơi an nghỉ
vĩnh hằng của người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Lăng chính thức
được khởi công ngày 2/9/1973, tại vị trí của lễ đài cũ giữa quảng
trường Ba Đình, nơi Bác Hồ đã từng chủ tọa các cuộc mít tinh lớn.
Lăng
được khánh thành vào ngày 29/8/1975. Toàn bộ khu di tích lăng Chủ tịch
Hồ Chí Minh rộng 14ha. Lăng cao 21,6m gồm ba lớp. Lớp dưới tạo dáng bậc
thềm là lễ đài dành cho Đoàn Chủ tịch trong các cuộc mít tinh. Lớp giữa,
phần trung tâm của lăng gồm phòng thi hài và những hành lang, cầu thang
lên xuống. Quanh bốn mặt là những hàng cột vuông ốp đá hoa cương, nhìn
từ bên ngoài, mặt nào cũng thấy năm khoảng đều nhau, gợi nhớ ngôi nhà
năm gian truyền thống Việt Nam. Lớp trên cùng là mái lăng hình tam cấp
bằng đá hồng ngọc mầu mận chín. Nhìn tổng thể lăng có hình bông hoa sen
cách điệu.
Trước mặt lăng có cột cờ cao 30m. Hàng
tre ngà hai bên biểu tượng hình ảnh làng quê Việt Nam. Hai bên trái và
phải ở mặt trước lăng được trồng 18 cây vạn tuế (mỗi bên chín cây). Vào
gần hơn, hai bên cửa lăng là hai cây đại, tượng trưng cho sự trong sáng,
thanh cao của Bác Hồ.
Ở mặt chính lăng có dòng
chữ Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng đá hồng ngọc màu mận chín. Hai bên lăng là
vườn cây, hoa quả tiêu biểu của các vùng quê Việt Nam bốn mùa tươi tốt,
quần tụ toả bóng mát và trổ hoa.
Bước vào phòng
ngoài, trước mặt trên tường đá hoa cương màu đỏ sẫm có hàng chữ vàng óng
ánh "Không có gì quí hơn độc lập tự do", dưới đó là chữ ký quen thuộc
của Bác.
Lên hết cầu thang là tới phòng thi hài,
nơi Bác an nghỉ. Phía đầu Bác nằm, trên nền tường ốp đá trắng gắn nổi
hình cờ Đảng và cờ Tổ quốc. Hòm kính có thi hài Bác bên trong đặt trên
đài hoa đước ghép bằng đá đen huyền lấp lánh muôn ngàn hạt sáng. Cách bố
trí lối đi từ ba phía cho phép mọi người chiêm ngưỡng Bác được lâu hơn,
lối đi rộng, nên nhiều người cùng lúc đều được nhìn thấy Bác. Qua lớp
kính trong suốt, Bác như vừa ngả lưng chợp mắt. Vẫn bộ quần áo ka-ki bạc
mầu, dưới chân Bác vẫn là đôi dép cao su giản dị.
Lăng
Chủ Tịch Hồ Chí Minh là nơi an nghỉ vĩnh hằng của Người, là biểu tượng
lòng tôn kính và biết ơn vô hạn của dân tộc Việt Nam đối với lãnh tụ của
mình.
Nhà sàn Bác Hồ:
Trong
khu vườn rộng sau Phủ Chủ tịch, có một con đường hẹp trải sỏi, hai bên
trồng xoài dẫn tới một ngôi nhà sàn nhỏ nhắn bình dị, nằm giữa những vòm
cây. Hàng rào dâm bụt bao quanh nhà, cổng vào kết bằng cành cây đan xen
nhau. Đó là ngôi nhà Bác Hồ ở và làm việc từ ngày 17-5-1958 cho tới khi
Người qua đời.
Tầng dưới nhà sàn là nơi Bác
thường họp với Bộ Chính trị. Tầng trên là hai phòng nhỏ, nơi Bác làm
việc và phòng ngủ với những vật dụng đơn sơ giản dị. Trước nhà là ao cá
Bác nuôi, bên bờ ao là các loài hoa phong lan nở quanh năm.
Nhân
dân từ mọi miền đất nước cũng như du khách quốc tế đến thủ đô Hà Nội,
ai cũng muốn đến viếng lăng, thăm nhà ở của Bác và đi dạo quanh Quảng
trường Ba Đình lịch sử.
Sau nhà là vườn quả với
hàng trăm loài cây quý do các địa phương đưa về trồng, như cây vú sữa
của đồng bào miền nam gửi biếu Bác năm 1954, bưởi Phúc Trạch, Biên Hòa,
Mê Linh; cam Hải Hưng, Xuân Mai, Vân Du, Xã Đoài; quýt Hương Cần, Lý
Nhân; táo Thiện Phiến, Ngọc Hồ; song mai Đông Mỹ; hồng Tiên Điền (quê
hương nhà thơ Nguyễn Du). Trong vườn còn có cả những loại cây từ nước
ngoài như ngân hoa, cây bụt mọc quanh ao, cây cau vua gốc từ Caribê.
Nhà Hát Lớn:
Nhà hát lớn Hà Nội là công trình văn hoá vào bậc nhất nước ta được xây dựng vào năm 1902 và khánh thành năm 1911.
Tổng diện tích nhà hát là 2600m2.
Nội thất hiện đại, thoả mãn các yêu cầu biểu diễn và thưởng thức nghệ
thuật, các hoạt động văn hoá lớn trong và ngoài nước. Nhà hát đã được tu
bổ, nâng cấp và hoạt động rất hiệu quả với phương châm: mở rộng giao
lưu quốc tế và giữ gìn, phát huy những giá trị văn hoá dân tộc. Tại đây,
luôn luôn diễn ra những sự kiện văn hoá lớn của thủ đô và đất nước, các
buổi tiếp khách quan trọng, các cuộc mít tinh, hội thảo, giao lưu văn
hoá.
Thư viện quốc gia:
Nằm
trên phố Tràng Thi, Thư viện Quốc gia là thư viện tổng hợp lớn nhất của
Việt Nam. Thành lập khoảng năm 1919 và mang tên toàn quyền Đông Dương
Pi-e Pát ki ơ, vào lúc phát triển nhất (năm 1939), thư viện có 92.163
cuốn sách, trong đó khoảng hai phần mười là sách tiếng Việt.
Năm
1954, được cải tổ thành Thư viện trung ương, với vốn sách báo cũ, cộng
với vốn sách báo của thư viện của Chính phủ đưa từ chiến khu Việt Bắc về
chừng 180 nghìn cuốn.
Ngày 26-6-1957, Thư viện
trung ương được chính thức mang tên Thư viện quốc gia Việt Nam, đồng
thời cũng là cơ quan lưu chiểu sách báo in trong nước. Bốn chục năm qua,
Thư viện quốc gia Việt Narn không ngừng bổ sung sách báo trong nước và
nước ngoài.
Hiện nay, đã có hơn một triệu cuốn
sách, bảy nghìn loại báo và tạp chí tiếng Việt và các thứ tiếng khác.
Các luận án tiến sĩ của cán bộ khoa học Việt Nam, được bảo vệ trong nước
và ngoài nước, cũng tập trung ở đây.
Đây là một
trong những trung tâm văn hoá Việt Nam có những mối liên hệ quốc tế rộng
rãi nhất, thường xuyên trao đổi sách báo với hơn 300 thư viện cơ quan
khoa học lớn của 100 nước trên thế giới.
Thư viện
quốc gia Việt Nam là thành viên của Hiệp hội Quốc tế các thư viện
(LFLA). Bằng những trao đổi và hợp tác đã thu thập được hàng trăm nghìn
sách báo của nước ngoài có giá trị thuộc nhiều lĩnh vực.Những phòng đọc
thoáng mát, những nơi tra cứu và mượn sách thuận tiện, những phương tiện
sao chụp của thư viện ngày càng hoàn thiện.
Thư
viện thường xuyên tổ chức các buổi nói chuyện về đời sống, kinh tế, văn
hoá, lịch sử, khoa học kỹ thuật công nghệ, các danh nhân...phục vụ bạn
đọc. Diễn giả là các nhà khoa học, văn nghệ sĩ danh tiếng. Thư viện quốc
gia Việt Nam còn là cơ quan hướng dẫn nghiệp vụ cho hệ thống thư viện
trong cả nước.
Khu phố cổ Hà Nội:
Khu
phố cổ Hà Nội, từng được các du khách phương Tây ví với thành Venice cổ
kính, cho đến hôm hay vẫn là khu phố cổ xưa độc đáo ở Việt Nam.
Khu
phố cổ Hà Nội thường được gọi là khu 36 phố phường nằm ở trung tâm
thành phố Hà Nội, thuộc quận Hoàn Kiếm, có diện tích là 100 ha, được
giới hạn phía bắc là đường Hàng Đậu, phía nam là các đường phố Hàng Bông
- Hàng Gai - Cầu Gỗ và Hàng Thùng; phía đông là đường Trần Nhật Duật -
Trần Quang Khải, phía tây là đường Phùng Hưng.
Nơi
đây, xưa là các phường hội thủ công. Mỗi phố mang tên một hàng hoá:
Hàng Nón, Hàng Chiếu... Trong khu phố cổ Hà Nội, xen lẫn các ngôi nhà
truyền thống là các công trình văn hóa, lịch sử, tôn giáo và các nhà
hàng ẩm thực. Khu phố cổ còn giữ được dáng vẻ kiến trúc của dân tộc Việt
Nam và châu Á - tạo thành một quần thể kiến trúc độc đáo - nhà cửa san
sát, phố xá tấp nập. Nhiều hoạt động trong đời sống hằng ngày của người
dân đô thị diễn ra tấp nập: sinh hoạt, bán hàng, sản xuất, vui chơi,
nghỉ ngơi, lễ hội, tạo nên sức sống mãnh liệt để khu phố tồn tại và phát
triển liên tục.
Hà Nội xưa phân chia thành hai
khu vực rõ rệt: khu thành cấm dành cho vua chúa, quan lại và khu buôn
bán dành cho dân chúng - chính là khu phố cổ ngày nay. Thời trước, khu
phố cổ được hình thành từ một mạng lưới giao thông đường sông với hệ
thống kênh rạch tạo bởi các nhánh của sông Hồng và sông Tô Lịch. Những
thợ thủ công lành nghề được triều đình tuyển chọn đã lập ra các làng
nghề ngay gần khu vực các cổng hoàng thành. Thế kỷ XI, đây đã trở thành
một khu phố buôn bán sầm uất với những phường thợ tách biệt chuyên làm
một loại mặt hàng. Chính vì vậy, đến ngày nay, thành phố vẫn thường được
gọi là Hà Nội - 36 phố phường. Mỗi phường bắt đầu bằng chữ "Hàng" như
Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Thiếc, Hàng Giấy, Hàng Mã, Hàng Giầy... “Hàng”
tiếng Việt cổ có nghĩa là hàng hóa, và các khu phố được đặt tên theo
loại mặt hàng bán nhất định. Một vài khu phố ngày nay vẫn bán những mặt
hàng truyền thống đó.
Phố cổ thực sự là khu vực
rất hấp dẫn để du khách khám phá. Những ngôi nhà “ống” trong khu vực này
là những ngôi nhà bề ngang hẹp và kéo dài về phía sau. Để thấy độ sâu
của chúng, có thể xuôi theo những ngõ hẻm giữa các tòa nhà hoặc thăm một
trong những cửa hàng trên phố Hàng Gai.
Cuộc sống
trên phố cổ hiện tại vẫn diễn ra sôi động. Ngay từ sáng sớm, đường phố
đã đông người: người đi làm, người bán hàng, người đi chơi... Những
người đàn ông làm những nghề do cha ông truyền lại, các cụ bà trông coi
nhà thờ họ, trông cháu hay bán thuốc lá, trông coi nhà cửa... Thậm chí
trong những đêm đông giá lạnh, người Hà Nội vẫn có thói quen tụ tập,
cùng nhau thưởng thức món ăn.
Phố cổ Hà Nội đang
đứng trước những biến động to lớn và phức tạp của sự thích ứng với đời
sống xã hội phát triển, làm cho một số ngôi nhà, đoạn phố bị thay thế
bởi những khối kiến trúc mới, hiện đại. Song phố cổ vẫn còn đầy vẻ quyến
rũ với những ngôi nhà ống nhỏ nhắn, xinh xắn và rêu phong, thấp thoáng
ẩn mình trong màu xanh mượt mà và ngọt ngào hương hoa của cây lá. Phố cổ
không bao giờ phai mờ vẻ đẹp thuần khiết, thanh tao.
Ngôi nhà cổ 87 Mã Mây:
Ngôi
nhà cổ 87 Mã Mây nằm ở phía bắc hồ Hoàn Kiếm. Phố Mã Mây xưa kia là hai
phố: đoạn đầu là phố Hàng Mây chuyên bán song mây, đoạn sau là phố Hàng
Mã, thời Pháp thuộc còn có tên Quân Cờ Đen.
Ngôi
nhà được xây dựng khoảng cuối thế kỷ XIX. Với kiến trúc kiểu nhà truyền
thống: giữa các lớp nhà có sân trong để lấy gió và ánh sáng, tầng một
(phần tiếp giáp mặt phố) dùng để bán hàng, phía trong để ở và sản xuất,
phần trong cùng là bếp và khu vệ sinh. Tầng hai, phòng ngoài để thờ và
tiếp khách, phòng trong là nơi ở. Ngôi nhà còn được giữ lại các chi tiết
kiến trúc cổ Hà Nội.
Ngôi nhà được cải tạo, bảo
tồn năm 1999 và hoàn thành tháng 10 năm 1999. Ngôi nhà là nơi giới thiệu
kiến trúc cổ Hà Nội và gợi ý nhân dân phố cổ cách bảo tồn, tôn tạo nhà
cổ.
Ngôi nhà cổ 38 Hàng Đào:
Ngôi
nhà 38 Hàng Đào, nguyên là đình Đồng Lạc (đình chợ bán yếm lụa). Đình
được xây dựng từ thời Lê (thế kỷ XVII) với quy mô rộng rãi: Nhưng vì
chiến tranh, đình bị phá huỷ. Khoảng năm 1856 (niên hiệu Tự Đức, Bính
Thìn), ngôi đình này được trùng tu.
Năm 1941 (niên
đại Bảo Đại 15), đình được xây dựng lại với quy mô hai tầng. Tầng một
sử dụng để ở, điện thờ được đưa lên tầng hai. Trước và sau nhà có sân
trồng cây. Ngồi nhà còn giữ lại được tấm bia đá cách đây hơn 150 năm một
di vật hiếm có ở các đình Hà Nội) và một số họa tiết trang trí của
đình.
Ngôi nhà được cải tạo, bảo tồn từ đầu năm
2000 và khánh thành vào tháng 4 năm 2000. Nơi này giới thiệu kỹ thuật
xây dựng truyền thống, kết hợp kỹ thuật tôn tạo hiện đại cũng như những
thông tin về bảo tồn, tôn tạo phố cổ.
Ô Quan Chưởng:
Đây
là một trong 21 cửa ô còn sót lại của toà thành Thăng Long cũ xây dựng
vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), đến năm Gia Long thứ ba được xây dựng
lại và giữ nguyên kiểu cách đến ngày nay.
Hiện cửa
ô còn nguyên cửa chính và hai cửa con hai bên, trên tường cửa chính có
gắn một tấm đá đặt năm 1882 ghi lệnh cấm người canh gác không được sách
nhiễu nhân dân mỗi khi qua lại cửa ô. Bên trên cửa lớn có ba chữ Hán
"Đông Hà Môn" tức là cửa ô Đông Hà, tên gọi một phường thời Lê bao gồm
khu vực Hàng Chiếu, Thanh Hà, Đào Duy Từ. Cửa ô còn có tên gọi khác là Ô
Quan Chưởng.
Tương truyền, tên gọi này bắt nguồn
từ sự kiện năm Tự Đức thứ 26, khi thực dân Pháp đánh thành Hà Nội
(20-11-1873), chúng kéo quân từ dưới tàu chiến đậu ở bến sông lên, khi
bắt đầu qua cửa ô Đông Hà thì vấp phải sức kháng cự quyết liệt của quân
Hà Nội do một viên quan chưởng cơ chỉ huy và bị thiệt hại khá nặng. Về
sau Pháp có thêm viện binh.
Kết cục, viên chưởng
cơ cùng toàn thể binh lính gồm một trăm người đều anh dũng hy sinh. Để
tỏ lòng ngưỡng mộ người chưởng cơ anh dũng, nhân dân đổi gọi cửa ô là ô
Quan Chưởng.
Tuy nhiên, sự kiện năm 1873 cho đến nay vẫn chưa được xác minh. Vì vậy, tên ô Quan Chưởng vẫn còn đó như một tồn nghi.
Hồ Tây:
Hồ
Tây, mặt gương của Hà Nội, có diện tích rộng hơn 500 ha với một bề dày
lịch sử mấy nghìn năm. Đường vòng quanh hồ dài tới 17km. Ngành địa lý
lịch sử đã chứng minh rằng hồ là một đoạn sông Hồng cũ còn rớt lại sau
khi sông đã đổi dòng... Có thể do sông hồ biến đổi như vậy mà đã xuất
hiện nhiều truyền thuyết về hồ và tên gọi của hồ. Ví như theo truyện "Hồ
Tinh" thì có tên là hồ (hoặc đầm) Xác Cáo, vì truyện kể là có một con
cáo chín đuôi ẩn nấp nơi đây làm hại dân. Long Quân mới dâng nước lên
phá hang cáo, hang sập thành ra hồ.
Theo truyện
"Khổng lồ đúc chuông" thì hồ lại có tên là Trâu Vàng. Truyện kể rằng có
ông khổng lồ có tài thu hết đồng đen của phương bắc đem đúc thành
chuông. Khi thỉnh chuông, tiếng vang sang bên bắc. Vì đồng đen là mẹ
vàng nên con trâu vàng phương Bắc nghe tiếng chuông liền vùng đi tìm mẹ.
Tới đây nó quần mãi đất, khiến sụt thành hồ. Theo thư tịch thì thế kỷ
XI, hồ này đi vào lịch sử với tên là Dâm Đàm (Đầm mù sương), tới thế kỷ
XV thì đã gọi là Tây Hồ. Hồ còn có tên là Lãng Bạc, trùng với tên nơi
diễn ra những trận đánh ác liệt giữa quân của Hai Bà Trưng và quân Hán ở
vùng Tiên Sơn tỉnh Bắc Ninh. Hồ Tây từ lâu lắm đã là thắng cảnh.
Thời
Lý - Trần, các vua chúa lập quanh hồ nhiều cung điện làm nơi nghỉ mát,
giải trí, như cung Thúy Hoa thời Lý, điện Hàm Nguyên thời Trần nay là
khu chùa Trấn Quốc, cung Từ Hoa thời Lý nay là khu chùa Kim Liên, điện
Thuỵ Chương thời Lê nay là khu trường Chu Văn An... Những ngày sóng yên
gió lặng, chơi thuyền Hồ Tây là một thú tao nhã. Lướt trên sóng hồ nhiều
thi sĩ đã có những vần thơ tuyệt tác như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ,
Nguyễn Khuyến...
Nếu làm một cuộc đi dạo quanh hồ
thì đồng thời cũng được thăm khá nhiều di tích và thắng cảnh. Làng Nghi
Tàm, quê hương nhà thơ "Bà huyện Thanh Quan" với chùa Kim Liên có kiến
trúc độc đáo; làng Nhật Tân nguồn hoa đào mỗi độ xuân về. Rồi làng Xuân
Tảo với đền Sóc thờ Thánh Gióng, làng Trích Sài có chùa Thiên Niên thờ
bà tổ nghề dệt lĩnh, sang làng Kẻ Bưởi có nghề làm giấy cổ truyền và đền
Đồng Cổ nơi bách quan hội thề thời Lý, làng Thụy Khuê có chùa Bà Đanh
nổi tiếng một thời... Và đặc sắc nhất là đền Quán Thánh. Lại còn cả một
số công trình nhà ở mới xây dựng bên hồ làm quang cảnh thêm đa dạng.
Cùng với hồ Trúc Bạch, Hồ Tây làm giàu thêm chất thơ ở nội thành Hà Nội
đồng thời cũng làm giàu cho Hà Nội về kinh tế, vì đó là những vựa cá đem
lại nguồn thu lớn.
Đền Kim Liên:
Đền
Kim Liên là một trấn ở phía nam thành Thăng Long, cùng với đền Quán
Thánh trấn phía bắc (còn gọi là Trấn Vũ), đền Bạch Mã ở phía đông, đền
Voi Phục phía tây (còn gọi là Thủ Lệ, Linh Lang) họp thành Thăng Long tứ
trấn tạo nên ý nghĩa và tầm vóc của mảnh đất kinh kỳ.Đền trước đây
thuộc địa phận phường Kim Hoa, sau thuộc phường Đông Tác, huyện Thọ
Xương, phủ Hoài Đức nay là phường Phương Liên, quận Đống Đa, Hà Nội.
Đình thờ thần Cao Sơn.
Tương truyền thần đã có
công giúp Sơn Tinh chiến thắng Thuỷ Tinh và sau này lại giúp vua Lê
Tương Dực dẹp loạn, khôi phục nhà Lê. Do đó vua Lê cho xây đền, dựng bia
để hương khói phụng thờ. Chịu tác động của thăng trầm lịch sử, đến nay
đền không còn nguyên dạng (toàn bộ nhà bái đường đã bị tàn phá), chỉ còn
lại nhà hậu đường ba gian, tam quan, cổng gạch và hai giải vũ. Tam quan
và đền xây trên gò đất cao, từ sân bước lên phải qua chín bậc gạch, hai
bên thềm là hai sấu đá niên đại thời Lê. Tam quan xây thành nhà hoàn
chỉnh, kiểu tường hồi bít đốc. Bốn góc tường hồi có bốn cột trụ, bốn bộ
vì đỡ mái làm theo kiểu chồng giường, giá chiêng, cột trốn. Các con
giường chạm nổi hình mây cuốn, câu đầu và hai bẩy hai vì ngoài chạm bong
kênh và chạm lộng nhiều lớp hình tứ linh. Trong đền vẫn còn long ngai
thờ thần Cao Sơn và hai nữ thần phối hưởng: Thuỷ Tinh đệ Tam Tôn nữ và
Huệ Minh phu nhân (không rõ sự tích). Đền còn giữ được 39 đạo sắc phong
trong đó 26 đạo thời Lê Trung Hưng, 13 đạo thời Nguyễn, ngoài ra là các
câu đối, bia đá trong hốc cây có bài văn bia của Lê Trung Hưng.
Đền Voi Phục:
Sở
dĩ gọi là đền Voi Phục vì tại cửa đền có đắp hai con voi quỳ ngay ở
cổng đi vào. Đền còn có tên là đền Thủ Lệ; Linh Lang do thờ thần Linh
Lang đại vương. Đền nằm phía tây kinh thành Thăng Long cũ, nay thuộc
phường Cầu Giấy, quận Ba Đình, Hà Nội. Đền là một trong "Thăng Long tứ
trấn", được dựng năm Chương Thánh Gia Khánh thứ bảy (1065) đời vua Lý
Thánh Tông. Tương truyền Linh Lang là con trai thứ tư của ông.
Trong
đền có hai pho tượng đồng và hòn đá to có vết lõm, tương truyền là nơi
Linh Lang nằm gối đầu lên rồi hoá thành con giao long và trườn xuống hồ.
Đầu năm 1994, nhân dân Thủ Lệ quyên góp đúc lại quả chuông chiều cao
93cm, đường kính miệng 70cm, thân chia 4 múi, mỗi múi có hai hàng chữ
Hán đúc nổi: "Tây trấn thượng đẳng".
Đường vào đền
có nhiều cây cổ thụ, đền được xây cạnh hồ Thủ Lệ, có khuôn viên rộng
rãi, cây cối xanh um tùm nên được coi là một cảnh đẹp của thủ đô Hà
Nội.
Đền Quán Thánh:
Đền
hiện ở ngã tư đường Thanh Niên và đường Quán Thánh, đời Lê thuộc đất
phường Thụy Chương, huyện Vĩnh Thuận, phía nam Hồ Tây. Đền được lập từ
khi vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long (năm 1010). Vua cho rước bài vị
của thần về ở phía tây bắc thành, gọi là Huyền Thiên Trấn Vũ đại đế
quán. Quán là nơi thờ tự của đạo Giáo, dân chúng quen gọi là đền Trấn Vũ
hoặc đền Quán Thánh.
Sự tích đền cho biết: Huyền
Thiên Trấn Vũ là thần cai quản phương bắc giúp dân trừ tà ma, yêu quái
phá hoại đời sống yên lành vùng chung quanh thành Thăng Long: trừ rùa
thành tinh (đời Hùng Vương 14), trừ cáo chín đuôi ở Tây Hồ, giúp An
Dương Vương trừ tinh gà trắng xây thành Cổ Loa, diệt hồ ly tinh trên
sông Hồng đời vua Lý Thánh Tông... Đến thời nhà Lê, các vua cũng thường
đến đây để cầu mưa mỗi khi có hạn hán. Ngôi đền hiện nay đã được sửa
chữa nhiều lần.
Năm Đinh Tỵ niên hiệu Vĩnh Trị II
(1677), đời Lê Hy Tông, chúa Trịnh Tạc sai đình thần là Nguyễn Đình Luân
trùng tu. Tượng Huyền Thiên Trấn Vũ được triều đình cho đúc lại bằng
đồng đen (hun). Tượng cao khoảng 3,96m, chu vi 8m. Tượng mặt vuông, mắt
nhìn thẳng, râu dài, tóc xoã không đội mũ, mặc áo đạo sĩ, ngồi trên bục
đá, tay trái bắt quyết, tay phải chống gươm có rắn quấn và chống lên
lưng một con rùa. Tượng Huyền Thiên Trấn Vũ là một công trình nghệ thuật
độc đáo, đánh dấu kỹ thuật đúc đồng và tài nghệ của dân ta cách đây ba
thế kỷ. Tại nhà bái đường còn một pho tượng nữa, nhỏ hơn, cũng bằng đồng
đen, nhiều người cho rằng đây là tượng ông Trùm Trọng, người thợ cả đã
chỉ huy việc đúc pho tượng Trấn Vũ. Tượng này là do các học trò của ông
đúc để ghi nhớ công ơn thầy. Cùng đúc với tượng là quả chuông cao gần
1,5m treo ở gác tam quan. Văn bia tại đền do trạng nguyên Đặng Công Chất
và tiến sĩ Hồ Sĩ Dương soạn. Thời Tây Sơn, đô đốc Lê Văn Ngữ, cùng
nhiều người nữa đã quyên tiền đúc chiếc khánh bằng đồng (1,10m x 1,25m)
vào năm Cảnh Thịnh thứ hai. Đến thời Nguyễn, vua Minh Mạng đến thăm đền,
đã cấp tiền tu sửa. Năm 1923, cho đổi là Trấn Vũ quán.
Năm
1856, bố chánh Sơn Tây là Phạm Xuân Quế, bố chánh Hà Nội là Tôn Thất
Giáo, tri huyện Vĩnh Thuận là Phan Huy Khiêm đã tổ chức quyên góp trùng
tu, sửa lại chính điện, đình thiêu hương, bái đường và gác chuông, làm
thêm hai dãy hành lang bên phải và bên trái, đắp lại bốn pho tượng đại
nguyên soái, tượng thần Đương Niên hành khiển, Văn Xương Đế Quân và dời
xuống hậu đường phía sau. Năm 1842, vua Thiệu Trị đến thăm và dâng một
đồng tiền vàng, cộng với số tiền vàng do các hoàng thân dâng, đúc lại
thành vòng. Vòng dùng sợi dây bạc xâu để treo ở cổ tay tượng thần. Đằng
sau đền lại đắp hòn núi non bộ trong một bể con và dựng một đền nhỏ gọi
là Vũ Đương Sơn. Sửa chữa xong, có dựng bia do tiến sĩ Lê Hy Vĩnh soạn.
Đền hiện nay có sáu bia, kiến trúc, trang trí của đền hiện nay mang
phong cách thời Nguyễn.
Đền Bạch Mã:
Đền
thuộc phường Hà Khẩu, tổng Hữu Túc, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, nay
là 76 Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đền thờ thần Long Đỗ tức Bạch
Mã, vị thần bảo hộ kinh thành Thăng Long. Theo một bộ sách soạn ở thế kỷ
XIV thì chính thần Bạch Mã đã cảnh cáo Cao Biền, một viên quan Trung
Quốc, sang cai trị, khoảng thời gian từ năm 866 đến năm 875, khiến y sợ
hãi phải lập đền thờ. Một truyền thuyết khác kể thêm: khi vua Lý Công
Uẩn định đô Thăng Long (1010), xây thành mà cứ bị sụt lở, ông tới đây
cầu lễ và lạ thay, một buổi sáng chợt thấy có con ngựa trắng từ trong
đền đi ra, chạy vòng quanh khu vực đang xây thành, chạy đến đâu để dấu
chân đến đấy rồi trở lại đền và vụt biến. Vua Lý cứ theo vết chân ngựa
mà xây, thành không lở nữa. Vua bèn phong thần Long Đỗ làm thành hoàng
bảo vệ cho Thăng Long. Từ đó thần có thêm tên là Bạch Mã.
Đền
đã được sửa chữa nhiều lần, cuối thế kỷ XVII được tôn nền cũ và mở
rộng. Năm 1781, chúa Trịnh cho dân các giáp Mật Thái, Bắc Thượng, Bắc Hạ
thuộc phường Hà Khẩu chung quanh đền Bạch Mã được "tạo lệ" (sắm lễ vật
tế, không phải sưu sai, tạp dịch khác). Năm 1829, sửa chữa đền thêm
tráng lệ. Năm 1839, dựng văn chỉ ở bên trái đền, dựng Phương đình để làm
nơi cúng lễ các tuần tiết. Trong đền hiện nay còn lưu giữ được khá
nhiều hiện vật có giá trị như 15 văn bia (nội dung các văn bia đề cập sự
tích của đền, thần, nghi lễ cúng thần, các lần trùng tu tôn tạo), đồ
thờ gồm các vũ khí thời cổ như xích, đao, thương, câu liêm... được sơn
son thếp vàng, chạm khắc tinh xảo. Trong đền, cùng với các lư hương
đồng, bình đồng, còn có tượng Phật và một đôi hạc, đôi phỗng trong tư
thế đứng trang nghiêm.
Lễ hội đền hằng năm vào tháng hai âm lịch, trước đây có tổ chức lễ đánh trâu rước xuân.
Văn Miếu - Quốc Tử Giám:
Văn
Miếu - Quốc Tử Giám là trường học cổ của kinh thành Thăng Long và là
trường đại học đầu tiên ở vùng Đông Nam Á. Văn Miếu không những là một
di tích lịch sử - văn hoá cổ kính, mà còn là nơi tổ chức các hoạt động
văn hoá, khoa học đậm đà bản sắc dân tộc của thủ đô Hà Nội.
Văn
Miếu được xây dựng tháng 8 năm Canh Tuất, tức tháng 10 năm 1070 (đời
vua Lý Thánh Tông) là nơi thờ các thánh hiền đạo nho (Khổng Tử, Mạnh
Tử...). Sáu năm sau (1076), Lý Nhân Tông lập thêm Quốc Tử Giám ở kề phía
sau, ban đầu là nơi học của các hoàng tử, sau mở rộng thu nhận cả những
học trò giỏi trong thiên hạ. Văn Miếu có tường bao quanh xây bằng gạch
Bát Tràng. Bên trong có những lớp tường ngăn thành năm khu. Khu thứ nhất
bắt đầu với cổng chính. Trên cổng có chữ Văn Miếu Môn, dưới cổng có đôi
rồng đá mang phong cách thời Lê Sơ (thế kỷ XV).
Lối
đi ở giữa dẫn đến cổng Đại Trung Môn mở đầu cho khu thứ hai. Hai bên
còn có hai cổng nhỏ có tên là Thành Đức và Thành Đạt. Vẫn lối đi ấy dẫn
tới Khuê Văn Các (gác vẻ đẹp của sao khuê, sao chủ về văn học). Hai bên
gác có hai cổng nhỏ có tên là Súc Văn và Bí Văn (Văn hàm súc và Văn sáng
đẹp).
Khu thứ ba từ gác Khuê Văn tới Đại Thành
Môn. Ở giữa khu này có một hồ vuông gọi là Thiên Quang Tỉnh (Giếng trời
trong sáng) có tường hoa bao quanh. Hai bên là khu nhà bia (nơi dựng bia
ghi tên những người đỗ tiến sĩ). Hiện nay có 82 bia, xưa nhất là bia
ghi khoa Đại Bảo thứ ba (năm 1442), muộn nhất là bia Cảnh Hưng thứ 40
(năm 1779). Đó là những di vật quý nhất của khu di tích này.
Bước
qua cửa Đại Thành là tới khu thứ tư. Một sân rộng, hai bên là hai dãy
nhà tả vu, hữu vu, vốn dùng làm nơi thờ các danh nho. Cuối sân là nhà
Đại Bái, kiến trúc đẹp và hoành tráng.
Tại đây có
một số hiện vật quý: bên trái có chuông Bích Ung đại chung (chuông lớn
của nhà Giám) do Nguyễn Nghiễm đúc năm 1768; bên phải có một tấm khánh
đá, mặt trong có hai chữ Thọ Xương, mặt ngoài khắc bài minh viết kiểu
chữ lệ, nói về công dụng của loại nhạc khí này. Tiếp sau Đại Bái là Hậu
Cung nơi đặt tượng Khổng Tử và bốn môn đệ là Nhan Tử, Tăng Tử, Mạnh Tử,
Tử Tư. Sau khu Đại Bái vốn là trường Quốc Tử Giám thời Lê, khi nhà
Nguyễn chuyển trường này vào Huế thì ở đây dựng đền Khải Thánh thờ cha
mẹ Khổng Tử. Năm 1947, giặc Pháp đã đốt trụi khu này.
Ngày
nay, thành phố Hà Nội đã lập tại đây "Trung tâm hoạt động văn hoá -
khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám" để phát huy tác dụng của di tích.
Những món ăn đặc sản ở Hà Nội
Dân dã đậu phụ làng MơChả cá Lã Vọng – đặc sản đất Kinh Kỳ
Phở Hà Nội – Thương hiệu ẩm thực
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét