Minh Hương Phật Tự
Chùa Phật Minh Hương tọa lạc tại số 7 đường Nguyễn
Huệ, khối An Định, thành phố Hội An. Đây là ngôi chùa Phật đầu tiên của
Hội An và... có trước thành phố Hội An.

Đây
là ngôi chùa thờ Phật duy nhất còn lại giữa khu phố cổ, có kiến trúc và
cảnh quan xinh đẹp đồng thời còn lưu giữ gần như nguyên vẹn các tác
phẩm điêu khắc gỗ đặc sản do các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng thực hiện.
Chùa thờ Quan Thế Âm Bồ Tát và một số chư vị Phật, Bồ Tát khác, vì vậy
trong những ngày lễ, ngày rằm thường có rất nhiều người đến.
Theo hoành phi treo ngay chính điện thì chùa được xây vào tháng hai năm Quý Tỵ 1653

CHIÊN ĐÀN LÂM
Thành Thái Giáp Thìn, bổn xã trùng tu
Khánh Đức Quý Tỵ nhị nguyệt cốc đán
Tín quan viên lão kính lập
Bức hoành được lập năm 1904 (Thành Thái Giáp Thìn) còn Khánh Đức
Quý Tỵ là năm 1653 mà tháng chạp năm này vua Lê Thần Tông (Lê Duy Kỳ)
tức Khánh Đức năm thứ năm ban sắc phong cho Quan Công miếu. Điều đáng để
ý là miếu thờ đức Quan Thánh và chùa Phật Minh Hương cùng một khu đất,
cùng một “chủ” lập nên thì liệu có nghi vấn gì không?!
Mặt khác theo tư liệu của chùa Long Tuyền Hội An thì (trích):
“Chùa Di Đà (tức Chiên Đàn Lâm - Minh Hương Phật Tự) do
người Minh Hương xây dựng năm Kỷ Mùi 1679 dưới thời trị vì của chúa
Nguyễn Phúc Tần. ... ... ... Năm Ất Hợi, 1695, chúa Nguyễn Phúc Chu sai
sứ sang Trung Hoa thỉnh hòa thượng Thạch Liêm Đại Sán qua Việt Nam lập
đàn truyền giới tại kinh đô Thuận Hóa. Đoàn tùy tùng hòa thượng có tổ
Minh Hải, tổ Minh Lượng. Khi qua và về tổ Thạch Liêm đều tạm nghỉ tại
chùa Di Đà để chờ tàu buôn về nước. Tổ Thạch Liêm có mở đàn tràng tại
đây để truyền giới cho 300 giới nữ theo giới. Tổ Minh Hải ở tại đây qua
năm sau ra xây dựng chùa Chúc Thánh, tổ Minh Lượng cũng ở tại đây đến
bốn năm sau mới ra khai sơn chùa Vạn Đức.
Năm Mậu Ngọ, 1798, tổ Minh Giác được chư sơn thiền đức
thỉnh ngài về trụ trì chùa Di Đà này và khai đàn truyền giới cho tăng ni
phật tử sau mới về trụ trì chùa Phước Lâm.
Chùa Di Đà sau cải danh là chùa Chiên Đàn. Ngôi chùa
này đã đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá Phật giáo đầu tiên
tại tỉnh Quảng Nam của các tổ sư Trung Hoa và Việt Nam”.
Tuy nhiên, theo anh Trương Duy Cường, con ông Trương Đình Hoanh, chủ nhiều hiệu buôn và hý viện PHI ANH ở Hội An, là dòng dõi của ngài Trương Hoằng Cơ, kể lại theo gia phổ hiện phụng giữ trong từ đường tại Hội An như sau:
"Chùa Phật và Chùa Văn Chỉ tọa lạc trên đường Phan Châu Trinh ngày nay (trước là đường Minh Hương). Kể từ đường Hoàng Diệu đổ lên hướng đường Lê Lợi có Chùa Văn Chỉ, Chùa Phật, đến miếu Quảng An. Chùa Văn Chỉ thờ Đức Khổng Tử. Miếu Quảng An nằm góc đường Phan Châu Trinh và kiệt ra giếng Bá Lễ (nơi này ông Phạm Phú Cần dùng làm nơi dạy hoc từ trước năm 1975) nay không còn là nơi để chiêm bái nữa.
Nguyên khuôn viên của hai Chùa này chiếm trọn cả một vùng khá rộng kể cả đường Minh Hương. Nhưng khi thực dân Pháp ổn định việc cai trị, chúng mở đường, qui hoạch thành phố, khiến diện tích hai Chùa này bị phân cắt, đến nay chỉ còn lại di tích Chùa Văn Chỉ (bị bỏ hoang phế). Riêng Chùa Phật, Hòa Thượng Huệ Hường dời về phía sau khuôn viên Chùa Ông (tức Trùng Hán Cung). Chùa này được đổi tên là Minh Hương Phật Tự và cuối cùng lấy tên Chùa Quan Âm. (Hiện nay Ban Quản Lý Di Tích Hội An trưng dụng làm Nhà Bảo Tàng Lịch Sử Đô Thi Cổ). Chính nơi đây, Hòa Thượng Huệ Hường viên tịch năm 1848 và được chôn ngay tại khu đất trước mặt Chùa Ông (chỗ giếng nước đầu chợ Hội An). Về sau, hài cốt của Hòa Thượng được cải táng đưa đến chôn tại Chùa Chúc Thánh. Còn Ni Cô Diệu Thành, khi qua đời được dân làng chôn bà tại khu đất phía hông Nhà Thờ Đạo Thiên Chúa bên kia đường Lê Hồng Phong ngày nay. Năm 1976, theo qui hoạch của chính quyền mới, hài cốt bà được đưa về chôn tại Chùa Chúc Thánh.
Tuy nhiên, theo anh Trương Duy Cường, con ông Trương Đình Hoanh, chủ nhiều hiệu buôn và hý viện PHI ANH ở Hội An, là dòng dõi của ngài Trương Hoằng Cơ, kể lại theo gia phổ hiện phụng giữ trong từ đường tại Hội An như sau:
"Chùa Phật và Chùa Văn Chỉ tọa lạc trên đường Phan Châu Trinh ngày nay (trước là đường Minh Hương). Kể từ đường Hoàng Diệu đổ lên hướng đường Lê Lợi có Chùa Văn Chỉ, Chùa Phật, đến miếu Quảng An. Chùa Văn Chỉ thờ Đức Khổng Tử. Miếu Quảng An nằm góc đường Phan Châu Trinh và kiệt ra giếng Bá Lễ (nơi này ông Phạm Phú Cần dùng làm nơi dạy hoc từ trước năm 1975) nay không còn là nơi để chiêm bái nữa.
Nguyên khuôn viên của hai Chùa này chiếm trọn cả một vùng khá rộng kể cả đường Minh Hương. Nhưng khi thực dân Pháp ổn định việc cai trị, chúng mở đường, qui hoạch thành phố, khiến diện tích hai Chùa này bị phân cắt, đến nay chỉ còn lại di tích Chùa Văn Chỉ (bị bỏ hoang phế). Riêng Chùa Phật, Hòa Thượng Huệ Hường dời về phía sau khuôn viên Chùa Ông (tức Trùng Hán Cung). Chùa này được đổi tên là Minh Hương Phật Tự và cuối cùng lấy tên Chùa Quan Âm. (Hiện nay Ban Quản Lý Di Tích Hội An trưng dụng làm Nhà Bảo Tàng Lịch Sử Đô Thi Cổ). Chính nơi đây, Hòa Thượng Huệ Hường viên tịch năm 1848 và được chôn ngay tại khu đất trước mặt Chùa Ông (chỗ giếng nước đầu chợ Hội An). Về sau, hài cốt của Hòa Thượng được cải táng đưa đến chôn tại Chùa Chúc Thánh. Còn Ni Cô Diệu Thành, khi qua đời được dân làng chôn bà tại khu đất phía hông Nhà Thờ Đạo Thiên Chúa bên kia đường Lê Hồng Phong ngày nay. Năm 1976, theo qui hoạch của chính quyền mới, hài cốt bà được đưa về chôn tại Chùa Chúc Thánh.
Nhưng trong bi ký hiện lưu trong Quan Thánh miếu lập năm 1753 lại ghi:
關 聖 帝 廟, 觀 音 佛 寺 本 鄉 鼎 建 百 有 餘 年 矣
(Quan Thánh Đế miếu, Quan Âm Phật Tự bổn hương đỉnh kiến bách hữu dư niên hỹ)
Miếu Quan Thánh Đế, chùa Phật Quan Âm của làng ta đã lập nên hơn trăm năm rồi vậy.
Như vậy thì có thể chắc một điều chùa Phật Minh Hương (Giữ thơm nhà Minh) xây dựng trước năm 1653. Còn vị trí khởi thủy thì chưa xác định được.

Chánh điện chùa Phật Minh Hương
là nơi tàng trữ cổ vật Hội An để giới thiệu với khách tham quan.
Chùa hiện còn năm bia đá trong đó có hai bia “ký gửi”, một của chùa
Bà Mụ và một của chùa Quảng An, còn lại là ba bia ghi công đức đóng góp
dựng chùa với ít nhất hai lần trùng tu năm 1904 và năm 1943 (từ Chiên
Đàn Lâm đổi thành Minh Hương Phật Tự). Chùa hiện không còn xà cò, chánh
điện dành một phần của gian giữa làm nơi thờ Phật. Từ hơn năm chục năm
nay, chùa không có một tăng sĩ nào cả.

Một trong những hiện vật đang được trưng bày tại đây.
Phía trong là nơi thờ linh vị Phật có... thùng phước sương nho nhỏ.
Nhìn cổ vật cho đã đi rồi mời chư huynh ngước nhìn lên hai tấm hoành phi
Từ ân vĩnh tì (Ơn lành độ trì mãi)

Viên đạo giáo (Đạo tròn đầy)
Rồi trước khi ra về, hãy nán lại đọc bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng để khỏi uổng phí một lần ghé chơi phố cổ.

Trí tuệ - Từ bi
Bồ đề bản vô thụ
Minh kính diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai
(Bồ đề chẳng phải cây
Gương sáng chẳng phải đài
Tự tánh không một vật
Bụi bặm bám vào đâu)
Nhất trần bất đáo Bồ đề địa
Vạn thiện đồng quy Bát Nhã môn.
Đến du lịch hội an bạn hãy chọn cho mình một khách sạn ở hội an để nghỉ ngơi nhé. Khách Sạn Green Field Hội An là một điểm đến lý tưởng cho bạn ở 423 Cửa Đại, Hội An, Quảng Nam
Đồng xanh - Green Field Hotel là khách sạn toạ lạc trên trục đường chính từ Hội An đến biển cửa Đại. Chung quanh được bao bọc bởi cây xanh cùng với gió biển trong lành, mát mẻ.
Khách
sạn có 60 phòng ngủ, hấu hết các phòng có ban công nhìn ra hồ bơi và
sân vườn.tất cả các phòng đều có cửa sổ thoáng mát cùng các tiện nghi
hiện đại và đầy đủ các dịch vụ theo tiêu chuẩn khách sạn ba sao.
Quầy bar và nhà hàng Âu Á với 100 chỗ ngồi cạnh hồ bơi và sân vườn cây cảnh.
Hội trường rộng 150m2, mới xây dựng năm 2007, thoáng mát, đầy đủ tiện nghi,trang thiết bị hiện đại phục vụ hội nghị với 120 ghế ngồi.
Hồ bơi có hệ thống matxa theo công nghệ JEAN DESJOYAUX của Pháp.
Do một vị quan họ Trần (một dòng họ lớn từ Trung Hoa di
cư đến Hội An vào những năm 1700) xây dựng năm 1802 theo
những nguyên tắc phong thuỷ truyền thống của người Trung Hoa
và người Việt. Tạo lạc trên một khu đất rộng khoảng 1500 m2,
có nhiều hạng mục: nhà thờ tự ông bà và trưng bày các di vật
liên quan đến dòng họ, nhà ở ... Đây là nơi tụ họp con cháu
vào dịp lễ bái, tri ân tổ tiên và giải quyết những vấn đề
trong dòng tộc.
Nhà thờ tộc Trần là một trong những điểm tham quan điểm tham quan được nhiều du khách quan tâm.
Hội quán
Ngũ Bang
(64 đường Trần Phú, Hội An)
Hội quán Ngũ Bang còn có tên là hội quán Dương Thương
hay Trung Hoa hội quán. Hội quán do các thương khách người Hoa gốc
Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng Đông, Hải Nam, Gia Ứng xây dựng
vào năm 1741. Đây là nơi thờ Thiên Hậu Ngũ Bang
và sinh hoạt đồng hương để giúp nhau làm ăn buôn bán. Hội
quán Ngũ Bang mang đậm
phong cách kiến trúc Trung Hoa.
Hội quán Quảng Đông (17 đường Trần Phú, Hội An)
Hội quán được Hoa Kiều bang Quảng Đông xây dựng vào năm
1885. Thoạt đầu để thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu và Đức Khổng Tử,
sau năm 1911 chuyển sang thờ Quan Công và Tiền Hiền của
bang.
Với nghệ thuật sử dụng hài hào các chất liệu gỗ, đá trong kết cấu chịu lực và hoạ tiết trang trí đã đem lại cho hội quán vẻ đẹp đường bệ, riêng có. Hàng năm, vào ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng Âm lịch), vía Quan Công (24 tháng 6 Âm lịch) tại đây diễn ra lễ hội rất linh đình, thu hút nhiều người tham gia.
Hội quán Triều Châu (157 đường Nguyễn Duy Hiệu, Hội An)
Hội quán được Hoa Kiều bang Triều Châu xây dựng vào năm
1845 để thờ Phục Ba tướng quân Mã Viện - vị thần giỏi chế
ngự sóng gió giúp cho việc đi lại buôn bán trên biển được
thuận buồm xuôi gió, đắc lợi.
Hội quán có giá trị đặc biệt về kết cấu kiến trúc với bộ khung gỗ trạm gỗ chạm trổ tinh xảo cùng những hoạ tiết, hương án trang trí bằng gỗ và những tác phẩm đắp nổi bằng sành sứ tuyệt đẹp.
Bánh Ướt ( Bánh Đập )
Bạn đã một lần nếm thử bánh ướt Cẩm Nam chắm mắm nêm bên bờ sông Hoài dưới bóng tre râm mát ?
Một đĩa bánh ướt mỏng tang, một vài kẹp bánh tráng nướng cũng giòn tan và một chén mắm nêm kèm chút tương ớt. Bạn đã có thể thưởng thức hương vị dân dã Hội an rồi đó !
Bánh ướt được tráng từ bột gạo. Chọn loại gạo ngon, sàng sảy sạch sẽ tạp chất, vo gạo sạch rồi ngâm từ 3 – 4 giờ sau đó đem xay bột mịn. Tỷ lệ gạo và nước thường được ước lượng do kinh nghiệm của người làm bánh để có bánh ngon dẻo không bị rách, nhão. Để tráng bánh ướt người ta dùng lò tráng – lò thường được đắp đất sét để giữ nhiệt. Quan trọng nhất là kỷ thuật căng vải trên miệng nồi. Vải không được căng lắm cũng như trũng lắm. Khi nước đã sôi già, múc một vá nước bột trải đều theo hình xoáy tròn trên mặt vải. Đậy nắp kín sau một phút thì bánh chín. Dùng một đủa tre được chút mỏng từ từ lật mí rồi vớt bánh ra. Người ta thường xoa dầu ăn giữa hai lớp bánh và dùng lề bằng lá chuối để kẹp bánh.Bánh ướt có thể phơi một nắng rồi đem nướng than. Khi ăn thường kẹp một bánh tráng nướng mỏng và một bánh ướt – có lẻ vì thế mà người ta còn gọi là Bánh Đập.
Bánh Bèo
Trong
các món ăn chế biến từ gạo, sau mỳ Quảng, bánh bèo là món ăn chiếm được
sự ưa chuộng của đông đảo cư dân Hội An, nhất là cư dân các vùng nông
thôn. Để làm bánh bèo, người ta chọn loại gạo ngon cho vào ngâm nước để
gạo mềm rồi xay thành nước bột mịn. Bánh ngon hay dở phụ thuộc phần lớn
vào khâu xay nầy. Nước bột không được quá đặc, vì đặc bánh sẽ cứng, nếu
lỏng quá bánh sẻ nhão, không đứng tròng ( chén bánh không trũng ở giữa
). Nước bột này khi lấy tròng xong được cho vào chén rồi sắp lên vỉ tre
đặt vào nồi để hấp. Bánh chín được vớt ra để chồng úp lên nhau cho
nguội. Chén bánh khi chín trắng tinh, mềm mướt, giữa lại có một xoáy
tròn thật là ngộ nghĩnh. Chén để làm bánh bèo là một loại chén bằng đất
nung tráng men, nhỏ hơn chén ăn thông thường, mà tròn trịa dể thương.
Nhưn ( nhân ) bánh bèo chủ yếu được làm từ những sản vật địa phương, đó
là tôm thịt…Tôm bỏ đầu băm nhỏ, thịt xắt nhỏ hạt lựu, trộn vào với tôm,
ướp với gia vị, pha thêm chút bột điều cho tăng phần hấp dẫn rồi đưa lên
bếp xào chín, hoà thêm ít nước bột gạo đổ vào, sao cho nhưn chín có
dạng sền sệt màu đỏ hồng, vị ngọt béo lẫn vị cay the và thơm là đạt yêu
cầu. Nhìn chén bánh bèo trắng phau, nhưn giữa màu đỏ hồng điểm tôm thịt
như nhuỵ một đoá hoa đang khoe hương khoe sắc. Lại thêm mùi sực nức,
đầy hấp dẫn khiến cho người ăn muốn ăn một lần hết mấy chục chén bánh
bèo cho hả dạ Dụng cụ để ăn bánh bèo không phải đủa, cũng không phải
muỗng mà là một thanh tre vót hình lưỡi dao, gọi là “dao tre”. Lối ăn
thế nầy cũng gợi bao sự hiếu kỳ cho khách và cũng là lối ẩm thực khác
biệt giữa bánh bèo và các loại bánh được chế biến bằng gạo.
Đậu Hủ
Đậu
hủ là một món ngọt dân dã phổ biến ở Hội An. Tuy là món ăn thông thường
làm bằng đậu nành, nhưng để làm được nó là cả một quá trình chế tác
không đơn giản và đỏi hỏi phải có kinh nghiệm “gia truyền” mới có thể
làm được. Để làm đậu hủ, người ta dùng đậu nành tróc sạch vỏ, ngâm nước,
đem xay nát rồi cho vào một tấm vải, bòng ( lọc ) lấy tinh chất của
đậu, sau đó cho vào nồi nấu pha thêm thạch cao cho sữa đậu dể đông.
Thạch ở đây dưới dạng khối rắn như phèn sa, phèn chua. Trước khi pha vào
sữa đậu, người ta cho thạch vào nồi nung nóng, sau đó đem nghiền nát
thành bột. Công đoạn nầy đỏi hỏi kinh nghiệm nhiều nhất vì nếu như pha
nước, pha thạch không đúng tỉ lệ và không quen tay thì sửa đậu sẻ không
đông mà bị vữa. Đậu hủ ngon đúng điệu cũng nhờ một phần nhỏ của nước
đường. Để nước đường tăng phần đặc sắc người ta giã nhỏ một ít gừng cho
vào, làm cho vị đường có vị cay ngọt, mặn nồng khó quên. Hủ đựng đậu
thường được làm bằng hủ sành giản dị, chung quanh quấn một lớp rơm rạ để
giữ cho êm hủ đậu và giữ độ nóng cho đậu bên trong, bên ngoài có một
giỏ tre bảo vệ và để tiện cho việc vận chuyển gánh đi. Hàng ngày trên
các đường phố Hội An, các bà các cô kĩu cà kĩu kịt gánh đậu hủ trên vai
rao bán khắp nơi. Những gánh đậu ấy, những tiếng rao ấy cũng góp phần tô
điểm sắc thái cho phố cổ thân thương.
Bánh Đậu Xanh
Bánh
đậu xanh ở Hội An có lịch sử lâu đời. Từ thế kỷ thứ XVIII, bánh đậu
xanh đã là một món quà có giá trị được cư dân địa phương dùng để dâng
tặng các quan lại. Trong một lần Vua Minh Mạng tuần du vào Quảng Nam, cư
dân ở đây đã dâng tiến loại bánh đậu xanh thượng hạng ở phố Hội An để
ngài ngự dụng. Tiếng thơm nầy không phải ngẩu nhiên mà có. Cũng là đậu
xanh, nếp, đường, nhưng chiếc bánh ở phố cổ Hội An có hương vị và cách
trình bày riêng. Những chiếc bánh đậu xanh ở đây có dáng hình tròn hoặc
vuông. Cũng là bánh đậu xanh ướt nhưng nó không quá bở và mềm như bánh
đậu xanh Hải dương. Nó có độ dẻo vừa phải để khi ngậm vào miệng không
tan ngay. Một số loại bột thơm cũng được sử dụng khéo léo để tăng hương
vị của bột đậu. Lại có loại bánh đậu xanh khô. Người ta trộn bột đậu
xanh, nếp, đường theo một tỉ lệ vừa phải, cho vào khuôn nhỏ bằng gỗ để
làm nên những chiếc bánh đậu xanh xinh xắn. Sau đó đem sấy bánh trên lò
than để chúng săn cứng, giòn, thơm. Đặt biệt là loại bánh đậu xanh khô
có nhân thịt. Đây chính là sản phẩm độc đáo của phố Hội và thật đáng
tiếc cho ai đến Hội An mà bỏ qua dịp để nếm thử những chiếc bánh in nầy.
Chúng vừa ngọt, vừa béo, vừa thơm, vừa giòn. Một sự pha trộn kỳ lạ mà
chỉ có nghệ nhân tài hoa về ẩm thực mới có thể nghĩ ra và chế biến được.
Tuy có nhân thịt nhưng do xử lý kỹ nên bánh có thể giữ được lâu từ nửa
tháng đến một tháng mà không sợ bị ôi thiu. Ngày nay, những phong bánh
in đã được bày bán nhiều nơi ở trong phố Hội An và rất được du khách ưa
chuộng. Chúng đã góp phần tôn
Bánh Ú Tro
Hằng
năm, vào ngày mồng năm tháng năm âm lịch, bà con Hội An và các vùng lân
cận như: Điện bàn, Đà nẳng đổ về phố Hội An để mua bằng được vài trăm
bánh ú tro về cúng ông bà tổ tiên và làm quà cho người thân, nhân dịp lể
tết mông năm lại đến. Dân gian truyền rằng: vào thời chiến quốc tại
nước Sở có một người tên là Khuất Nguyên vừa là một thầy thuốc vừa là
một trung thần nhưng không đuợc vua trọng dụng. Ông trầm mình tại sông
Mạch La thuộc nước Sở vào ngày 5 tháng 5 âm lịch. Từ đó về sau, đến ngày
ấy, nhân dân mua bánh ú tro để cúng ông, vì bánh ú tro có 4 góc nên thả
xuống nước cá không ăn được. Phong tục đó dần được người Việt tiếp thu
và chuyển hoá thành tết mồng năm với tục hái lá thuốc và giết sâu bọ khá
đặc trưng. Dường như người ta không còn nhớ mình cúng ai vào ngày nầy
nhưng bánh ú tro, thịt vịt, hoa quả thì phải sắm đủ. Bánh muốn ngon phải
gói bằng lá kè tại núi ngoài Huế. Nếp phải lựa kĩ không cho lộn gạo tẻ,
đải sạch ngâm với nước tro mè ( Cây mè đốt lấy tro, hoà vào nước, lọc
qua hồ cát ) để qua đêm. Nước tro pha một ít phèn sa để bánh không bở.
Nhờ nước tro mè mà hạt nếp nhuyễn thành bột. Chỉ có một muổng cafe nếp
mà những chiếc bánh được sắp xếp vuông vức. Do vậy ông bà ta thường dạy:
”học ăn, học nói, học gói, hoc mở ”. Ngoài ra để có những chiếc bánh
không sống, qua kinh nghiệm cho biết, khi nước sôi thì thắp một cây
hương, đến khi hương tàn thì chín bánh. Chiếc bánh vừa mềm, vừa dẻo lại
vừa dòn sựt sựt, nhưng ăn nó phải có đường cát thì mới hợp gu.
Cơm gà phố Hội
Đến
Hội An, du khách đừng bỏ lỡ dịp thử qua món cơm gà với cách chế biến và
hương vị độc đáo riêng của người dân phố Hội. Vào những đêm phố cổ,
ngang qua dãy phố, dưới những vòm mái ngói rêu phong cổ kính, dưới những
ánh đèn lồng lung linh, quý khách không thể làm ngơ trước những con gà
tơ luộc chín bày lên trên đĩa, trước mùi thơm hấp dẫn bay ra từ trong
hàng quán cơm gà. Nhìn đĩa cơm nóng đang bốc khói và toả mùi thơm nức,
bên trên rải những miếng thịt gà tơ lụt chín, xé nhỏ, thực khách đã thấy
thèm ăn. Ăn kèm với cơm là những lát hành tây trắng nõn, tương ớt đỏ
tươi, muối tiêu lấm chấm và nước mạ trộn nhiều tim gan cật gà, vô cùng
hấp dẫn. Ăn món thịt gà tất nhiên không thể thiếu dĩa rau răm vì thiếu
nó như thiếu đi một phần thú vị ” gà cồ ăn quẩn cối xay, rau răm muối ớt
xé phay gà cồ “. Đêm đêm, những gánh cơm gà vẫn được bày bán trên một
số ngã phố, góp phần làm phong phú chủng loại và tính độc đáo của món ăn
Hội an.
Hến Cẩm Nam
Hến
Cẩm Nam từ lâu đã thành một món quen thuộc, có mặt hàng ngày trong các
bửa ăn của những gia đình bình dân cũng như khá giả ở phố Hội an. Sau
những giờ lao động vất vả, cả nhà ngồi quây quần bên rổ khoai lang, vị
dai dai, ngọt ngọt của hến với vị cay cay của ớt, của hành làm không khí
gia đình ấm cúng hẳn lên. Hến không những nấu với bầu, ăn với khoai
lang mà hến kia cộng với rau muống thái nhỏ thì ta được một tô canh hến
tuyệt vời trong những ngày hề oi bức. Trước cái rét của mùa đông ước gì
có được một tô cháo hến gạo lức sền sệt thơm phức trên mặt rải một ít
cọng hành và tiêu thì thật chẳng có món nào bằng. Ngoài ra món hến trộn
còn là đặc sản trong các quán ăn, nhà hàng. Trông đĩa hến trộn thật hấp
dẫn từ con hến bé tí đến cộng rau, cộng hành xanh xanh và mít non trắng
xắt mỏng. Cái vị dai dai, ngọt ngọt của hến gặp vị thơm, béo của những
tép hành hương giòn tan, mùi đậu phụng rang thơm phức, cay của rau húng,
ớt hoà cùng những sớ mít chín mềm ngọt đã làm món hến trộn Cẩm Nam trở
nên độc đáo.
Tương Ớt Hội An.
Bất
cứ một món ngon nào cũng không thể thiếu phần gia vị, mà tương ớt là
một trong những gia vị không thể thiếu được trong những món ăn ngon.
Tương ớt Hội An tuy chỉ là một loại tương cay thông thường nhưng hương
vị, chất lượng khó có nới nào bì kịp. Nguyên liệu để làm tương ớt chủ
yếu là ớt mua từ các vùng nông thôn đưa lên bán. Quả ớt để làm tương yêu
cầu phải chín đỏ, tươi. Cách làm tương cũng không kém phần phức tạp. Ớt
tươi đem luộc rồi xay nhuyễn trộn với cà chua vừa đủ, khử dầu, cho vào
chảo đun sôi. Lại cho thêm các thứ mè rang, tỏi… trộn đều cho thấm, tiếp
tục xào cho ráo nước để thành tương ớt. Khi tương ớt đã nguội được cho
vào lọ. Trên mặt lọ tương đổ một lớp dầu khử chín để giử được lâu và
tránh mốc. Một lọ tương ớt đạt yêu cầu là phải có màu đỏ đẹp, có vị cay
mà không gắt và mùi thơm dịu. Tương ớt Hội An không chỉ sản xuất để phục
vụ cho các nhà hàng, khách sạn hay các quán ăn trong nội tỉnh mà còn
được bán đi khắp nơi trên đất nước như TP Hồ chí Minh, Huế, Quảng
Ngải..Tại Hội An trước đây có tiệm tương ớt Triều Phát rất nỗi tiếng.
Hiện nay tương ớt được nhiều nhà sản xuất và bày bán, chất lượng tuy
không bằng trước nhưng vẫn được nhiều người, nhiều địa phương ưa chuộng.
Chỉ
cách phố cổ 4 phút đi bộ, đi xe đạp chỉ 10 phút đến biển Cửa Đại Hội
An, rất thuận tiện cho du khách tắm biển, mua sắm hoặc dạo chơi phố cổ
Với
phương châm phục vụ: " Chất lượng - Thân thiện - Hiệu quả " Trong thời
gian lưu trú tại Green Field Hotel. Khách sẽ cảm thấy hài lòng và hoàn
toàn yên tâm thoải mái như đang ở nhà mình.
Quầy bar và nhà hàng Âu Á với 100 chỗ ngồi cạnh hồ bơi và sân vườn cây cảnh.
Hội trường rộng 150m2, mới xây dựng năm 2007, thoáng mát, đầy đủ tiện nghi,trang thiết bị hiện đại phục vụ hội nghị với 120 ghế ngồi.
Hồ bơi có hệ thống matxa theo công nghệ JEAN DESJOYAUX của Pháp.
Các điểm đến tiếp theo:
Nhà thờ tộc Trần (số 21 đường Lê Lợi, Hội An)
Nhà thờ tộc Trần là một trong những điểm tham quan điểm tham quan được nhiều du khách quan tâm.
Chùa Ông (24
đường Trần Phú, Hội An)
Chùa Ông được xây dựng năm 1653, đã
qua 6 lần trùng tu vào các năm: 1753, 1783, 1827, 1864,
1904, 1906. Chùa Ông có kiến trúc uy nghi, hoành tráng, tại
đây thờ tượng Quan Vân Trường (một biểu tượng về trung - tín
- tiết - nghĩa) nên còn có tên gọi là Quan
Công Miếu. Chùa
Ông đã từng là trung tâm tín ngưỡng của Quảng Nam xưa, đồng
thời cũng là nơi các thương nhân thường lưu đến để cam kết
trong việc vay nợ, buôn bán, làm ăn và xin xăm cầu may.


Hội quán Quảng Đông (17 đường Trần Phú, Hội An)

Với nghệ thuật sử dụng hài hào các chất liệu gỗ, đá trong kết cấu chịu lực và hoạ tiết trang trí đã đem lại cho hội quán vẻ đẹp đường bệ, riêng có. Hàng năm, vào ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng Âm lịch), vía Quan Công (24 tháng 6 Âm lịch) tại đây diễn ra lễ hội rất linh đình, thu hút nhiều người tham gia.
Hội quán Triều Châu (157 đường Nguyễn Duy Hiệu, Hội An)

Hội quán có giá trị đặc biệt về kết cấu kiến trúc với bộ khung gỗ trạm gỗ chạm trổ tinh xảo cùng những hoạ tiết, hương án trang trí bằng gỗ và những tác phẩm đắp nổi bằng sành sứ tuyệt đẹp.
Bánh Ướt ( Bánh Đập )

Một đĩa bánh ướt mỏng tang, một vài kẹp bánh tráng nướng cũng giòn tan và một chén mắm nêm kèm chút tương ớt. Bạn đã có thể thưởng thức hương vị dân dã Hội an rồi đó !
Bánh ướt được tráng từ bột gạo. Chọn loại gạo ngon, sàng sảy sạch sẽ tạp chất, vo gạo sạch rồi ngâm từ 3 – 4 giờ sau đó đem xay bột mịn. Tỷ lệ gạo và nước thường được ước lượng do kinh nghiệm của người làm bánh để có bánh ngon dẻo không bị rách, nhão. Để tráng bánh ướt người ta dùng lò tráng – lò thường được đắp đất sét để giữ nhiệt. Quan trọng nhất là kỷ thuật căng vải trên miệng nồi. Vải không được căng lắm cũng như trũng lắm. Khi nước đã sôi già, múc một vá nước bột trải đều theo hình xoáy tròn trên mặt vải. Đậy nắp kín sau một phút thì bánh chín. Dùng một đủa tre được chút mỏng từ từ lật mí rồi vớt bánh ra. Người ta thường xoa dầu ăn giữa hai lớp bánh và dùng lề bằng lá chuối để kẹp bánh.Bánh ướt có thể phơi một nắng rồi đem nướng than. Khi ăn thường kẹp một bánh tráng nướng mỏng và một bánh ướt – có lẻ vì thế mà người ta còn gọi là Bánh Đập.
Bánh Bèo

Đậu Hủ

Bánh Đậu Xanh

Bánh Ú Tro

Cơm gà phố Hội

Hến Cẩm Nam

Tương Ớt Hội An.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét