Chùa Hương
Từ bến Đục ta sẽ bước lên một chiếc thuyền nhỏ, nhẹ nhàng như một cánh lá lướt xuôi theo dòng nước êm đềm đưa ta về một cõi thật nên thơ. Nếu khởi hành vào lúc trời sáng sớm, cảnh vật còn bàng bạc trong màn sương sớm, chắc hẳn bạn sẽ không còn thấy thuyền, thấy sông, chỉ thấy mình bồng bềnh nhẹ lướt như đang thực sự đi về nơi tiên cảnh.

Cuộc
hành trình trên thuyền chừng một giờ rưỡi sẽ đưa ta đi qua biết bao
ngọn núi, bao cánh rừng với những mái chùa ẩn hiện ở xa xa. Ở đây mỗi
ngọn núi đều có một hình dáng riêng, một tên gọi riêng, trùng trùng điệp
điệp nối tiếp nhau hai bên bờ. Tục truyền rằng ở đây có một trăm ngọn
núi, chín mươi chín ngọn quay đầu về hướng động Hương Tích đảnh lễ Phật,
chỉ riêng núi Tượng bướng bỉnh ngoảnh đầu đi nơi khác, nên bị Vị Hộ
Pháp vung gươm chém sạt một bên hông.
Đi hội chùa Hương vào dịp tháng 2, tháng 3 âm lịch, ta sẽ được ngắm những cánh rừng mơ đã ửng vàng, tỏa hương thơm thật dịu nhẹ đầy cả không gian. Rừng mơ là một đặc sản của chùa Hương. Những quả mơ vàng óng nơi đây nổi tiếng khắp nước, không phải nhờ vị ngọt đậm đà, không phải nhờ trái to quá khổ, mà bởi một hương thơm dịu nhẹ, quả rất chắc mà mọng nước không ở đâu có được. Thật khó đoán được mơ ở đây thơm làm không gian phảng phất một hương vị ngọt ngào, hay bởi trời đất ở đây thơm làm cây co, con người cũng được thấm đượm một hương vị đặc biệt. Như nhà thơ Tản Đà sau khi đến Chùa Hương đã phải thốt lên:
Đi hội chùa Hương vào dịp tháng 2, tháng 3 âm lịch, ta sẽ được ngắm những cánh rừng mơ đã ửng vàng, tỏa hương thơm thật dịu nhẹ đầy cả không gian. Rừng mơ là một đặc sản của chùa Hương. Những quả mơ vàng óng nơi đây nổi tiếng khắp nước, không phải nhờ vị ngọt đậm đà, không phải nhờ trái to quá khổ, mà bởi một hương thơm dịu nhẹ, quả rất chắc mà mọng nước không ở đâu có được. Thật khó đoán được mơ ở đây thơm làm không gian phảng phất một hương vị ngọt ngào, hay bởi trời đất ở đây thơm làm cây co, con người cũng được thấm đượm một hương vị đặc biệt. Như nhà thơ Tản Đà sau khi đến Chùa Hương đã phải thốt lên:
Chùa Hương trời điểm, lại trời tô
Một bức tranh tình trải mấy thu
Xuân lại xuân đi không dấu vết
Ai về, ai nhớ vẫn thơm tho...
Một bức tranh tình trải mấy thu
Xuân lại xuân đi không dấu vết
Ai về, ai nhớ vẫn thơm tho...

Chiếc thuyền nan đưa ta đến bến Trò, từ đây ta sẽ bước lên chùa Thiên Trù hay còn gọi là chùa Ngoài, để làm một cuộc chuẩn bị cho chuyến đi vất vả nhưng thật đáng nhớ vào Động Hương Tích hay còn gọi là chùa Trong. Tương truyền rằng, vào đời vua Lê Thánh Tông thế kỷ 15, trong một lần đi tuần thú phương Nam nhà vua đã ghé đến nơi đây và gọi vùng đất này là Thiên Trù. Sau đó còn có ba vị Hòa thượng đến đây dựng thảo am tu tập. Nhưng phải đến thế kỷ thứ 17, năm 1687, Hòa thượng Trần Đạo Viên Quang Châu Nhân đến dây tu hành, và vùng núi này mới bắt đầu được mỡ mang xây dựng thành một trung tâm Phật giáo, một danh lam thắng cảnh nổi tiếng như hiện nay.

Đường vào chùa Trong chỉ hơn 2 cây số, nhưng là hàng ngàn bậc đá nằm cheo leo, vắt vẻo trên sườn núi, cứ lên cao, cao mãi, nhìn xa xa lấp giữa muôn mầu lá, thấy một đoàn người cứ nối đuôi nhau như đi trên chiếc thang lên giữa trời. Trên đường đi có nhiều tảng đá đã mòn vẹt, trơn nhẫy, bởi muôn vàn buớc chân của khách hành hương, nhiều tảng đá cao chông chênh, đôi khi phải gập người mới lên khỏi, nhưng không thấy ai than thở, ca thán, bởi ai cũng mang theo trong hàng trang của mình một chiếc gậy trúc cầm tay, một câu kinh nơi cửa miệng: Nam Mô A Di Đà Phật.
Trên đường vào Động Hương Tích, ta sẽ còn đi qua thật nhiều địa danh nổi tiếng nữa: Chùa giải oan, Đền cửa Võng, giếng Long Tuyền, am Phật Tích, Động Tuyết Quỳnh...
Rồi những dốc núi cũng kết thúc, rồi con đường cũng đến tận cùng, và đây đã hiện ra cửa động với bút tích của Chúa Trịnh Sâm viết khi đến đây năm 1770 “Nam Thiên Đệ Nhất Động”-Động đẹp nhất trời Nam
Sau chúa Trịnh Sâm, còn rất nhiều nhà thơ lớn của nước Việt bị cảnh đẹp và khí linh thiêng ở đây làm choáng ngợp.

Từ cửa động đi xuống dưới lòng hang phải vượt qua chừng một trăm bậc đá, càng xuống dưới ta sẽ càng thấy sáng sủa hơn, thoáng mát, nhẹ nhõm hơn. Trong giây lát, bao nhiêu mệt nhọc của đoạn đường leo núi đều tan đi đâu mất, chỉ thấy trong lòng rộn một niềm lâng lâng. Trong Động Hương Tích có muôn vàn tượng Phật lớn nhỏ, được khắc vào đá, được tạc lên các nhũ thạch rủ xuống muôn mầu, muôn sắc. Nhưng đẹp nhất, bề thế nhất là bức tượng Bồ Tát Quán Thế Aâm nghìn mắt nghìn tay ở chính giữa bàn thờ.
Tục truyền rằng Bố tát Quán Thế Âm từ nước Mâu Trang đã đến đây tu thành chính quả. Và như thế có thể gọi nơi đây là một thánh tích. Không biết, có bao nhiêu người khách hành hương đến đây cảm được lòng từ bi của Ngài mà trở về bờ Giác. Có lẽ không phải là ít. Trong bài viết về cảm nghĩ khi đến chùa Hương của bà Inna Malkhanova, một Phật tử người Nga, bà đã viết, hai chuyến đi đáng nhớ nhất đời của nbà đến chùa Hương vào năm 1962 và năm 1989 đã là nhân duyên dẫn bà đến với đạo Phật, một tôn giáo thật xa lạ đối với người Nga.
Nhưng cũng có không ít người khác đã lợi dụng lòng sùng kính của khách hành hương đối với Hương Sơn để kinh doanh chùa chiền, làm hỏng đi sự hài hòa của khu di tích, sự linh thiêng của một vùng đất có một không hai của nước Việt này. Có một thời vào cuối năm 98, người ta đưa ra dự án sẽ thay những chiếc thuyền nan mong manh trên suối Yến bằng những chiếc cano vừa tiện nghi, vừa chạy nhanh hơn, sẽ xây một đường dây cáp dùng roòng roọc đưa du khách thẳng từ chùa Thiên Trù vào Động Hương Tích khỏi phải lội suối trèo đèo. Nhưng thật may, rồi người ta đã không làm như vậy. Và Hương Sơn lại được giữ nguyên vẻ đẹp hoang sơ của mình. Vì ngồi trên những chiếc cano luớt sóng tuy có tiện nghi thật, nhưng làm sao tâm ta có thời gian để lắng lại, để cảm thấy mình thực sự đang được đến một góc bồng lai kỳ thú.
Nếu không phải vượt mấy ngàn bực đá cheo leo vào cõi Phật, làm sao ta được rưng rưng chợt hiểu lòng từ bi vô bờ của Ngài, đã phải tu hành khó nhọc biết bao, vậy mà khi thành chính quá, Ngài lại nguyện ở lại độ cho chúng sinh cũng thành Phật.
Các điểm thăm quan tiếp theo:
Chùa Thiên Trù

Chùa Thiên Trù tọa lạc trên thềm núi Lão
được xây dựng từ năm Đinh Hợi (1467) đời vua Lê Thánh Tông niên hiệu
Quang Thuận thứ 8. Theo một số sử ký còn lưu lại có chuyện kể rằng:
trong một chuyến tuần thú phương Nam lần thứ hai, Vua Lê Thánh Tông
cùng tướng sĩ qua vùng núi Hương Sơn nghỉ lại ở Thung Lũng núi Lão và
cho quân lính thổi cơm ăn. Trong lúc thưởng ngoạn cảnh sắc thiên
nhiên, Vua xem thiên văn thấy vùng này ở vào vị trí của sao Thiên Trù
(Bếp Trời - một sao chủ về ăn uống), nên nhân đấy nhà Vua đặt tên cho
thung lũng này là Thiên Trù. Sau lần đó, có 3 vị Hoà thượng (Tỷ Tổ Bồ
Tát) tới đây dựng thảo am để tu hành và đặt tên là Thiên Trù Tự (chùa Thiên Trù). Nhưng sau 3 vị Hoà thượng này, việc trụ trì ở Chùa Thiên Trù bị gián đoạn nhiều năm.

Một góc chùa Thiên Trù
Tuy nhiên, trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954) giặc Pháp đã đánh và ném bom ra vùng đất Hương Sơn 3 lần (1947, 1948 và 1950). Ngày 11 tháng 2 năm 1947 (tức năm Đinh Hợi) Tam Bảo và một số công trình đã bị giặc Pháp tàn phá. Trong suốt 15 ngày, Chùa Thiên Trù bị lửa thiêu không sao dập tắt nổi. Đến năm 1950, lại một lần nữa giặc Pháp cho máy bay ném bom tàn phá toàn bộ các công trình, chỉ còn lại vườn Tháp là không bị tàn phá nặng nề. Sang năm 1951 (tức năm Tân Mão), Hoà thượng Thanh Chân đã cho dựng lên từ đống tro tàn đổ nát 6 gian nhà tranh để có nơi tu hành và nhang khói.
Đến niên hiệu Chính Hoà năm thứ 7 (1686) đời Vua Lê Trung Hưng, Hoà
thượng Vân Thuỷ Thiền Thiên Trần Đạo Viên Quang được Vua phong Thượng
lâm viện Viên Giác Tôn Giả Ty Tăng Lục (thời Lê, Ty Tăng Lục được lập
ra để chăm sóc, cai quản các vị tu hành) tới đây tái lập đạo Phật,
phát triển Phật giáo và cùng hương dân nơi đây xây dựng lại ngôi Tam
Bảo, trùng hưng Thiên Trù Tự.
Tiếp sau Hoà
thượng Trần Đạo Viên Quang việc trụ trì và phát triển Phật giáo ở đây
lại gián đoạn một lần nữa. Phải đến 20 năm sau, tức vào năm 1707, có
Đại sư Thông Lâm tới trụ trì và tiếp tục cùng hương dân thôn Yến Vĩ
xây dựng Chùa Thiên Trù thành ngôi Tam Bảo lợp bằng lá 5 gian và 6
gian tả, hữu vu để thờ Phật và tu hành. Kế thừa Đại sư Thông Lâm là
Hoà thượng Thanh Quyết trụ trì. Với sự giúp đỡ của các tín đồ, phật
tử, thiện tín muôn phương, chính điện chùa Thiên Trù được khởi công
xây dựng vào năm Mậu Thân niên hiệu Duy Tân thứ 2. Sang đời trụ trì
của Đại sư Thanh Tích công việc xây dựng kiến thiết vẫn được tiếp tục
triển khai và kéo dài gần 10 năm, để rồi Thiên Trù trở thành một lâu
đài nguy nga tráng lệ giữa núi rừng Hương Sơn, hiện lên như một kiến
trúc nghệ thuật độc đáo.
Chùa Thiên Trù được
xây dựng trên một mảnh đất hình chữ nhật chạy dài suốt từ sân dốc cho
tới bức tường ngăn giữa khoảng đất bằng phẳng và núi Sau Chùa. Kiểu
kiến trúc của Thiên Trù có tên là “Ngũ môn tam cấp” - tức năm cửa ba
bậc. Qua cổng là đến sân. Hai bên sân là hai dãy nhà tranh làm nơi ăn
nghỉ cho du khách trong ngày hội. Qua sân là đến bảo thềm thứ nhất –
đây cũng là một cái sân. Trước bảo thềm này có đặt một đỉnh đồng cao
3m dùng để khói nhang. Qua sân bảo thềm thứ nhất là đến bảo thềm thứ
hai – là một cái sân cao hơn. Hai bên sân bảo thềm thứ hai là những
gian nhà cầu cho khách ngủ trọ. Tiến đến sân bảo thềm thứ ba cao hơn
một chút, qua hai cửa tam quan nối vào Tam Bảo chính là nơi thờ Phật.
Hai bên Tam Quan là gác trống bên trái và gác chuông bên phải. Hai bên
Tam Bảo là hai bể nước, các buồng sư, buồng cung văn, nhà dấu, nhà
oản,…vv. Phía sau Tam Bảo là điện Thánh Mẫu bên trái, gác tàng thư,
nhà Tổ ở giữa và Thiên Thuỷ tháp bên phải.
Có thể nói Chùa
Thiên Trù là một công trình kiến trúc văn hóa nghệ thuật Lê -Nguyễn.
Sự bố cục rất hài hòa:tam bảo, tiền đường, nhà thờ tổ, nhà thờ mẫu,
nhà khách, các nhà kho…có đủ phương tiện sinh hoạt cho hàng trăm người
nghỉ lại lễ Phật qua đêm. Đây là một ngôi chùa nổi tiếng thế kỷ XIX
và nửa đầu thế kỷ XX
Một góc chùa Thiên Trù
Tuy nhiên, trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954) giặc Pháp đã đánh và ném bom ra vùng đất Hương Sơn 3 lần (1947, 1948 và 1950). Ngày 11 tháng 2 năm 1947 (tức năm Đinh Hợi) Tam Bảo và một số công trình đã bị giặc Pháp tàn phá. Trong suốt 15 ngày, Chùa Thiên Trù bị lửa thiêu không sao dập tắt nổi. Đến năm 1950, lại một lần nữa giặc Pháp cho máy bay ném bom tàn phá toàn bộ các công trình, chỉ còn lại vườn Tháp là không bị tàn phá nặng nề. Sang năm 1951 (tức năm Tân Mão), Hoà thượng Thanh Chân đã cho dựng lên từ đống tro tàn đổ nát 6 gian nhà tranh để có nơi tu hành và nhang khói.

Sau khi hoà bình lập lại trên đất Bắc, được sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước cùng với sự đóng góp công đức của thập phương, Hoà thượng
Thích Thanh Chân cùng chính quyền và nhân dân địa phương đã khởi dựng 7
gian nhà khách khang trang vào năm Mậu Tuất (1958), tạm thời làm nơi
thờ Phật và để thập phương về Lễ hội dâng hương, từng bước xóa dọn vết
tích chiến tranh.
Từ năm 1984 đến 1985, Ty
Văn hoá – Thông tin Hà Sơn Bình (nay là Sở Văn hoá – Thông tin tỉnh Hà
Tây) đã cùng nhà chùa tranh thủ sự ủng hộ của du khách thập phương,
xây dựng lại gác chuông 8 mái theo kiểu chùa Ngăm ở giữa sân Thiên
Trù. Đặc biệt, kể từ năm 1989 Ban xây dựng chùa Hương đã được thành
lập do Hoà thượng Thích Viên Thành làm Trưởng ban. Kể từ đây, Ban xây
dựng Chùa Hương đã vận động nhân dân, phật tử thập phương cùng sự chỉ
đạo của ngành văn hoá tỉnh đã khởi công xây dựng toà Tam Bảo (ngày 18
tháng 3 năm 1989), và đến ngày 11 tháng Giêng năm 1991 thì được khánh
thành. Năm 1992 Ban xây dựng khởi công xây dựng điện Hương Thuỷ và
khánh thành vào ngày 11 tháng Giêng cùng năm. Điện Hương Thuỷ là nơi
thờ tượng Mẫu Liễu Hạnh - người được mệnh danh là Mẫu nghi thiên hạ.
Đây là công trình mang phong cách dân gian của nhà điêu khắc Trần Tuy.
Năm 1993, Tổ đường và Bảo điện phía sau Tam Bảo được xây dựng và
khánh thành vào ngày 11 tháng Giêng năm Quý Dậu (1993). Cùng năm này,
động Vân Thuỷ Thiền Thiên nằm phía trên Thiên Thuỷ Tháp, nơi thờ Thượng
ngàn chúa tể cũng được khai mở khánh thành. Năm 1994, cổng Nam Thiên
Môn cũng được hoàn thành vào đúng ngày 11 tháng Giêng, đứng sừng sững
giữa núi rừng Hương Sơn.
Trải qua hai thập niên qua, Chùa Thiên Trù luôn được tô điểm thêm
những nét vẽ cho bức tranh thiên nhiên hùng tráng bằng những công
trình kiến trúc đặc sắc. Được như vậy là nhờ công đức to lớn của tín
đồ, du khách thập phương, của nhân dân sở tại và đặc biệt là sự cố
gắng chăm lo vun đắp của cố Thượng toạ Thích Viên Thành và Đại đức
Thích Minh Hiền - người đang giữ vị trí trụ trì Chùa Hương.
Hiện nay, với quần thể kiến trúc nguy nga, hoành tráng, Thiên Trù trở thành trung tâm của thắng cảnh Hương Sơn.

Dòng người đông đúc tại chùa Thiên Trù.
Chùa Động Tiên Sơn

Nằm trên Quốc lộ 80, cách trung tâm thị xã Hà Tiên 3km, thuộc xã Mỹ
Đức, Thạch Động là một tảng đá xanh khổng lồ cao 80m, mọc trơ trọi giữa
một vùng toàn đất. Thạch Động còn được gọi là Thạch Động thôn vân
(động đá nuốt mây). Vào lúc tinh mơ, những tảng mây trắng xốp nhẹ như
bông là đà bay qua đỉnh động, dừng lại rồi từ từ tỏa quanh cửa động...
gây ấn tượng như miệng động đang nuốt mây.
Nhìn từ phía nam, những vồ đá gồ ghề của Thạch Động trông giống như gương mặt của một vị tướng đội mũ lông nên người Pháp đặt tên là “Bonnet à Poil”.
Thạch Động có cả đường xe hơi lên tới bậc thang vào động, trong động khá rộng, những giọt nước mưa theo tháng năm xâm thực vào các vách đá, len lách chảy xuống hòa tan với chất vôi tạo thành những thạch nhũ rất sống động như một bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ. Đứng trước cửa động nhìn lên đỉnh, Thạch Động trông giống một con đại bàng đang tung cánh rất oai phong, xung quanh có những hòn đá nhô ra giống như đầu của chim đại bàng.
Phía trong động có chùa Tiên Sơn (Tiên Sơn tự), được xây vào đầu thế kỷ 20, bên trong thờ Phật Thích Ca và Bồ tát Quán Thế Âm. Từ Tiên Sơn tự, du khách có thể thưởng ngoạn và khám phá thạch động theo nhiều cửa. Bên trong mỗi hang động, bầu không khí mát lạnh lan tỏa khắp nơi.

Nhìn từ phía nam, những vồ đá gồ ghề của Thạch Động trông giống như gương mặt của một vị tướng đội mũ lông nên người Pháp đặt tên là “Bonnet à Poil”.

Thạch Động có cả đường xe hơi lên tới bậc thang vào động, trong động khá rộng, những giọt nước mưa theo tháng năm xâm thực vào các vách đá, len lách chảy xuống hòa tan với chất vôi tạo thành những thạch nhũ rất sống động như một bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ. Đứng trước cửa động nhìn lên đỉnh, Thạch Động trông giống một con đại bàng đang tung cánh rất oai phong, xung quanh có những hòn đá nhô ra giống như đầu của chim đại bàng.

Phía trong động có chùa Tiên Sơn (Tiên Sơn tự), được xây vào đầu thế kỷ 20, bên trong thờ Phật Thích Ca và Bồ tát Quán Thế Âm. Từ Tiên Sơn tự, du khách có thể thưởng ngoạn và khám phá thạch động theo nhiều cửa. Bên trong mỗi hang động, bầu không khí mát lạnh lan tỏa khắp nơi.

Chùa Giải Oan

Trên đường từ chùa Thiên Trù vào động Hương Tích khoảng 1200 mét, thì đến suối Giải Oan. Từ đây nhìn lên phía bên trái là chùa Giải Oan tọa lạc trên triền núi thấp, dưới chân mái đá cao khoảng 30 mét.
Đường lên chùa

Chùa Giải Oan
Trong chùa Giải Oan có một giếng nước nhỏ, gọi là
giếng Thiên Nhiên Thanh Trì, nước trong mát. Hai bên chùa có hai động
nhỏ, động Thuyết Kinh bên phải, am Phật Tích bên trái.
Chùa Giải Oan gắn với chuyện Phật Bà Quan Thế Âm thờ
trong động Hương Tích: "...Sau khi được thần núi cứu từ pháp trường về
Chùa Hương, tại đây Bà Chúa Ba tắm rửa sạch bụi trần, trút bỏ hết nỗi
oan khiên, rồi được đức Phật Tổ Như Lai chỉ vào động Hương Tích tu
hành… chín năm thành chính quả…”.
Chùa Giải Oan do Hòa thượng Thông Dụng xây dựng nên
vào thập niên thứ hai của thế kỷ XIX. Chùa làm một mái dựa lưng vào vách
núi, một mái lợp bằng gỗ lim, đến năm Đinh Mão (1927) Sư Tổ Thamh Tích
xây dựng lại theo kiểu cổ diêm, chất liệu bằng xi măng cốt thép, mái
đắp ngói ống, các góc đao đắp rồng như hiện nay.
Khách sạn đạt chuẩn 3 sao theo tiêu chuẩn quốc tế,
nằm trên vị trí đắc địa: nằm ngay khu tổ hợp trung tâm thương mại Hiền
Lương, là nơi giao thương của hai huyện Ứng Hòa
và Mỹ Đức. Khách sạn gồm 55 phòng nghỉ, nhà hàng, tổ hợp khu giải trí
với 10 phòng karaoke hiện đại và 01 khu spa và nhiều phòng chức năng
khác. Tất cả các phòng đều được thiết kế tỉ mỉ tới từng chi tiết và đáp
ứng những tiêu chuẩn cao nhất của khách du lịch theo mùa. Bên cạnh đó có nhiều khách sạn ở hà nội cho bạn lựa chọn.
Đến Hà Nội bạn hãy thưởng thức những món ngon này nhé:
1. Bún ốc
Tô bún ốc nóng hổi thời nay là một sự biến đổi của bún ốc nguội truyền thống
2. Nộm bò khô

Nộm bò khô Hà Nội là món ăn vặt khoái khẩu của nhiều chị em
3. Nem tai Bà Hồng

Quán nem tai Bà Hồng đã có từ hàng trăm năm nay
4. Chân gà nướng

Chân gà nướng trên than hồng hương thơm nức mũi
5. Ốc luộc

Ốc luộc ăn với sung muối chua cực ngon
6. Bún chả

Bún chả Hà Nội ngon nhờ khâu tẩm ướp thịt và bí quyết pha nước chấm
7. Kem Tràng Tiền

Người Hà Nội mê kem Tràng Tiền ngay cả khi trời mùa đông rét mướt
8. Chả cá Lã Vọng

Món ăn này được du khách quốc tế rất ưa thích
9. Phở

Hà Nội có phở bò, phở gà, phở bò sốt vang, phở cuốn…
10. Các món vịt

Kim Mã nay trở thành con phố tập trung các món ăn ngon chế biến từ vịt ở Hà Nội
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét