Thứ Hai, 14 tháng 10, 2013

Đền Quán Thánh

Đền Quán Thánh, đền quán thánh, den quan thanh
Vị trí: Ba Đình, Hà Nội
Đền Quán Thánh còn gọi là Trấn Vũ Quán là nơi thờ thánh Trấn Vũ tại Hà Nội. Tên đền có khi bị gọi nhầm là Quan Thánh.
Đền Quán Thánh nằm trên đất phường Quán Thánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, cạnh bên Hồ Tây và cửa Bắc Thành Hà Nội. Đây là một trong Thăng Long tứ trấn và Thăng Long tứ quán xưa.
Tương truyền đền có từ đời Lý Thái Tổ (1010-1028), thờ thánh Trấn Vũ - vị thần trấn giữ phương Bắc. Vì thế, còn có tên là Đền Trấn Võ, Quan Thánh Trấn Võ, hay Quán Thánh.
Đền được tu sửa vào năm 1838. Các bộ phận kiến trúc đền sau khi trùng tu bao gồm: tam quan, sân, ba lớp nhà tiền tế, trung tế, hậu cung. Các mảng chạm, khắc trên gỗ có giá trị nghệ thuật rất cao. Bố cục không gian rất thoáng và hài hòa. Hồ Tây trước mặt tạo cho đền luôn có không khí mát mẻ quanh năm.
Ngôi đền hiện nay đã được sửa chữa nhiều lần. Năm Đinh Tỵ niên hiệu Vĩnh Trị II (1677), đời Lê Hy Tông, chúa Trịnh Tạc sai đình thần là Nguyễn Đình Luân trùng tu. Tượng Huyền Thiên Trấn Vũ được triều đình cho đúc lại bằng đồng đen (hun). Tợng cao 3,07m, chu vi 8m. Tượng mặt vuông, mắt nhìn thẳng, râu dài, tóc xoã không đội mũ, mặc áo đạo sĩ, ngồi trên bục đá, tay trái bắt quyết, tay phải chống gươm có rắn quấn và chống lên lưng một con rùa. Tượng Huyền Thiên Trấn Vũ là một công trình nghệ thuật độc đáo, đánh dấu kỹ thuật đúc đồng và tài nghệ của dân ta cách đây 3 thế kỷ. Tại nhà bái đường còn một pho tượng nữa, nhỏ hơn, cũng bằng đồng đen, nhiều người cho rằng đây là tượng ông Trùm Trọng, người thợ cả đã chỉ huy việc đúc pho tượng Trấn Vũ. Tượng này là do các học trò của ông đúc để ghi nhớ công ơn của thầy. Cùng đúc với tượng là quả chuông cao gần 1,5m treo ở gác tam quan.

Văn bia tại đền do trạng nguyên Đặng Công Chất và tiến sĩ Hồ Sĩ Dương soạn. Thời Tây Sơn, đô đốc Lê Văn Ngữ, cùng nhiều người nữa đã quyên tiền đúc chiếc khánh bằng đồng (chiều 1,10 x 1,25m) vào năm Cảnh Thịnh thứ hai. Đến đời Nguyễn, vua Minh Mạng đến thăm đền, đã cấp tiền tu sửa.
Năm 1842, vua Thiệu Trị đến thăm và dâng một đồng tiền vàng, cộng với số tiền vàng do các hoàng thân dâng, đúc lại thành vòng. Vòng dùng sợi dây bạc xâu để treo ở cổ tay tượng thần. Đằng sau đền lại đắp hòn núi non bộ trong một bể con và dựng một đền nhỏ gọi là Vũ Đương Sơn. Sửa chữa xong, có dựng bia do tiến sĩ Lê Hy Vĩnh soạn.


Các bộ phận kiến trúc hiện thấy, là kết quả của lần trùng tu lớn, hồi thế kỷ 19, bao gồm: tam quan, sân, ba lớp nhà tiền đế, trung đế, hậu cung. Ở đây có pho tượng bằng đồng đen, cao gần 4m, nặng gần 4 tấn, đúc năm 1677 để thể hiện lòng ngưỡng mộ của nhân dân với thánh Trấn Vũ
Trong đền có bức tượng Trấn Vũ đúc bằng đồng đen năm 1667, cao 3,69 m, nặng khoảng 4 tấn. Tượng có hình dáng một Đạo sĩ ngồi, y phục gọn gàng nhưng tóc lại bỏ xõa, chân không mang giày, tay trái bắt quyết, tay phải chống gươm thần có rắn quấn quanh và chống lên lưng rùa. Tượng Trấn Vũ là một công trình nghệ thuật độc đáo duy nhất tại Việt Nam, khẳng định nghệ thuật đúc đồng và tạc tượng của người Hà Nội cách đây ba thế kỷ.
Ngoài nghệ thuật đúc đồng, đền Quán Thánh còn nổi tiếng với vẻ đẹp của nghệ thuật chạm khắc gỗ. Trên các bộ phận kiến trúc bằng gỗ của ngôi đền các đề tài như tứ linh, dơi, cá, tùng, trúc, cúc, mai, lẵng hoa, bầu rượu, thanh gươm, cảnh sinh hoạt của trần gian và thượng giới... được chạm khắc một cách tinh xảo mang đậm phong cách nghệ thuật thời Lê.
Không chỉ là một công trình có giá trị về mặt lịch sử và kiến trúc, đền Quán Thánh còn là nơi sinh hoạt tín ngưỡng văn hóa nổi tiếng của người dân Hà Nội xưa và nay. Trải qua gần một thiên niên kỷ nhưng ngôi đền vẫn còn nguyên vẹn.

Đến thăm thú ở Hà Nội bạn có thể dễ dàng chọn cho mình một khách sạn ở hà nội phù hợp với mình. Bạn có thể chọn Khách Sạn Royal Gate ở 9 Nguyễn Biểu, Q. Ba Đình, Hà Nội.
Từ khách sạn, bạn chỉ cần tản bộ khoảng 5 phút là đến khu vực Lăng Chủ tịch hay những danh lam thắng cảnh khác của Hà Nội như: Hồ Hoàn Kiếm, Phố Cổ (15 Phút đi taxi), Hồ Trúc Bạch, Hồ Tây (5 Phút đi bộ)...Nằm Trên đường 2 chiều Nguyễn Biểu, khách sạn không bị bó hẹp bởi không gian vốn rất "chật chội" của thủ đô mà có một không gian thoáng đãng với chỗ đỗ xe cho oto 5-7 chỗ ngay trước khách sạn, tầng hầm để xe. Đi vào khách sạn, mở ra trước mắt là sảnh rộng và sắp xếp rất tinh tế mà ít khách sạn nào có được.
Khách sạn có nhà hàng rộng đủ chỗ cho 70 đến 80 người, rất thuận tiện cho tổ chức tiệc. Nhà hàng nằm trên tầng 11 nên có view ra Hồ Tây rất đẹp, lãng mạn.
Tầng 12 của khách sạn là phòng họp rộng rãi cho 20 - 30 người, nếu công ty cần tổ chức hội họp thì đây là sự lựa chọn hoàn hảo

 Các điểm đến gần đó :

Tứ trấn Thăng Long

tứ trấn Thăng Long, tu,tran,thang,long
Vị trí: Hà Nội
Hà Nội nổi tiếng với nhiều danh lam thắng cảnh như: hồ Hoàn Kiếm, Văn Miếu - Quốc Tử Giám… với vẻ đẹp cổ kính, lãng mạn đến si mê lòng người. Nhưng cũng có một Hà Nội khiến ta phải nghiêng mình, sùng kính. Đó là “tứ trấn Thăng Long”, bốn ngôi đền thiêng trấn giữ những vị trí huyết mạch trên mảnh đất Thăng Long ngàn năm văn hiến.
“Tứ trấn Thăng Long”, bốn ngôi đền thiêng trấn giữ những vị trí huyết mạch trên đất Hà thành. Chuyến đi đúng vào dịp “tứ trấn” đang được trùng tu, tôn tạo. Dẫu vậy trong cái rủi lại có cái may, bởi lần đầu tiên chúng tôi bị hút vào một thế giới của sự thâm trầm cố hữu, sự uy linh và huyền diệu của đền thờ, miếu mạo.
 Qua đền Quán Thánh, vào Bạch Mã
Cổng đền Voi Phục
Tòa nhà Đại bái đền Quán Thánh với hai bên tả, hữu thờ Thanh Long, Bạch Hổ
Tượng Huyền Thiên Trấn Vũ uy nghi đặt tại điện thờ
Cổng tam quan của đền Kim Liên

Điểm đến đầu tiên của chúng tôi là đền Quán Thánh (còn gọi là Trấn Vũ Quán) - nơi thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, vị thần trấn cửa Bắc thành Thăng Long xưa. Nay đền nằm ở điểm quy tụ ngã tư đường Thanh Niên, đường Quán Thánh, thuộc phường Quán Thánh, quận Ba Đình, Hà Nội. Sử sách chép: đền có từ thời Cao Biền (thế kỷ 9) ở phía nam sông Tô Lịch. Sau Lý Thái Tổ dời đô (1010), mở rộng thành cũ đã dời đền về Tây Bắc thành (tức vị trí hiện nay).
Cổng tam quan vào đền hiện đang được tu sửa, nhưng phía trong sân đền từng đoàn du khách tấp nập kéo vào nhà Đại bái và Mật cung. Tòa Đại bái cao ráo, nguy nga với cột xà, cửa võng đều sơn son thếp vàng. Hai bên tả, hữu treo biển đồng chữ bạc của vua Thiệu Trị ban, trên có khắc bài thơ của chính ông và một khánh đồng do một đại đô đốc thời Tây Sơn cung tiến, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 2 (1795).
Ấn tượng nhất là trong nội cung có pho tượng Huyền Thiên Trấn Vũ, được đúc vào năm 1676-1704 đặt ở mặt điện. Tượng bằng đồng đen, cao 3,96m, nặng 4.000kg, ngồi oai nghiêm trên một bệ đá, mặt vuông, mắt nhìn thẳng, râu dài, đầu không đội mũ, tóc xõa ra sau lưng, mình mặc đồ đạo sĩ màu đen, đi chân đất. Tay trái tượng xòe ngón trỏ giơ lên trước ngực để bắt quyết, tay phải chống kiếm lên lưng rùa, thân kiếm có rắn quấn (rắn tượng trưng cho sức mạnh, rùa tượng trưng cho sự trường tồn của thần). Pho tượng là một công trình nghệ thuật phản ánh kỹ thuật đúc đồng và nghệ thuật tạc tượng điêu luyện của ông cha ta thế kỷ 17.
Rời đền Quán Thánh, men theo đường Phan Đình Phùng, rẽ vào phố Hàng Cót, qua phố Hàng Gà và đi thẳng vào phố Lãn Ông, chúng tôi tìm đến số nhà 76 phố Hàng Buồm, nơi đền Bạch Mã tọa lạc. Đây là một di tích hoàn chỉnh và biệt lập, xây dựng theo hướng đông nam, sát hè phố Hàng Buồm, trên khu đất có chiều dài 37,33m, rộng 15,96m.
Đền có quy mô lớn, mặt bằng tổng thể bao gồm các công trình kiến trúc trên một trục chính gồm: Nghi môn, Phương đình, Tiền tế, Trung tế và Hậu cung. Đền có 17 bức hoành phi, văn bia nói về thần Long Đỗ, cùng các nghi lễ cúng thần và các lần trùng tu tôn tạo. Nét đặc biệt ở đây là những con nghê trên xà ngang, những lồng đèn hình hoa sen trên đầu bốn xà nách và những họa tiết bài trí trên các ô cửa đều có phong cách gần gũi với phong cách kiến trúc của các phương đình tại hội quán Hội An và một số hội quán phía Nam hơn là kiến trúc phương đình ở phía Bắc.
Đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ, vị thần thành hoàng của kinh thành Thăng Long xưa. Tương truyền  năm 1010 Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, định đắp thành nhưng nhiều lần đắp lên lại bị đổ. Vua cho người cầu khấn ở đền Long Đỗ thì thấy một ngựa trắng từ đền đi ra. Vua lần theo vết chân ngựa vẽ đồ án xây thành, thành mới đứng vững. Về sau nhà vua sai tạc một con ngựa trắng để thờ và ban sắc phong cho thần làm “Thăng Long thành hoàng đại vương”. Vì thế gọi đây là đền Bạch Mã (đền ngựa trắng).
Đền đứng trấn phía đông nên được coi là một trong “tứ trấn Thăng Long” của kinh thành xưa. Trải qua các triều đại, đền được người đời ca tụng là chốn “vạn cổ anh linh” (muôn thuở linh thiêng). Một nhà thơ khuyết danh đã đề thơ ca ngợi đền:
Hiển hách thần uy nhất dạ linh phong đằng bảo mã
Huy hoàng hỏa đức thiên thu vượng khí trấn Thăng Long.
Dịch:
Hiển hách uy thần, một tối gió thiêng phi ngựa báu
Huy hoàng đức thánh, nghìn thu vượng khí đất Thăng Long.
Dọc xuống Kim Liên, rẽ ngang Voi Phục
Gần một tiếng, từ đền Bạch Mã dọc xuống phố Kim Hoa, chúng tôi đến đình Kim Liên (còn có tên là đền Cao Sơn). Đình được xây dựng trên một gò đất cao, quay mặt về hướng nam.
Ấn tượng đầu tiên là cổng tam quan. Đó là một nếp nhà ba gian, xây kiểu tường hồi bít đốc có niên đại từ thời Nguyễn. Đền chính có kết cấu hình chữ “Đinh” gồm Bái đường và Hậu cung. 
Tòa Bái đường là một nền đất cao với những hàng đá tảng kê chân cột to, dày. Tòa Hậu cung là một dãy nhà dọc ba gian xây gạch trần, mái lợp ngói ta. Trong nhà xây vòm cuốn, gian ngoài cùng bó bệ gạch cao để đặt hương án chạm gỗ sơn son thếp vàng. Phần thân của hương án được bố trí đậm đặc các hình trang trí trong những ô chữ nhật, các hoa văn được thể hiện bằng kỹ thuật chạm thủng, chạm nổi với nhiều đề tài phong phú như: hổ phù, long mã tranh châu, tứ linh, tứ quý, bát bửu…
Các thư tịch, văn bia về di tích đều khẳng định đình Kim Liên là nơi thờ thần Cao Sơn, một nhân vật quan trọng trong Điện Thần Việt cổ. Dưới triều Lê, lúc Lê Mẫn (Uy Mục đế) thất đức, có mưu đồ lật đổ vua Lê Tương Dực, tháng 11 năm Kỷ Tỵ (1509)đức vua lánh nạn vào Tây Đô dấy binh, khôi phục cơ nghiệp, cứu vớt dân lành.
Bấy giờ các danh tướng là Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Hoằng Dụ, Nguyễn Văn Lữ phụng mệnh mang quân đi chinh phạt. Khi gặp ngôi đền, bên trong dựng một tảng đá đề dòng chữ “Cao Sơn Đại Vương” thấy vậy làm kinh ngạc bèn cúi lạy ngầm khấn… Không đầy một tuần nghiệp lớn đã thành công. Năm đó vào ngày 2 tháng chạp, nhà vua lên ngôi báu, giành lại ngai vàng. Nghĩ đến ơn thần đã ngầm giúp, năm 1509 vua Lê Tương Dực cho dựng lại đền to đẹp hơn ở phường Kim Hoa gần Thăng Long lúc bấy giờ, sai sử thần Lê Tung soạn văn bia lưu truyền mãi mãi để sớm hôm hương khói báo đáp ơn thần.
Dọc theo phố Kim Hoa, rẽ ngang qua Đê La Thành, tới đường Kim Mã là đã đặt chân đến đền Voi Phục. Đền thờ Đức Thánh Linh Lang Đại Vương, nên có tên gọi khác là “Linh Lang từ”. Đền được xây dựng vào đời vua Lý Thánh Tông (1054-1072) trên một khu gò cao thuộc vùng Thủ Lệ, nay thuộc phường Cầu Giấy, quận Ba Đình, Hà Nội.
Tên gọi của đền (Voi Phục) gắn bó với sự tích của Linh Lang Đại Vương, người anh hùng có công dẹp giặc, bảo vệ đất nước. Sử tích chép: “Đức Thánh nguyên là hoàng tử thứ tư của Lý Thánh Tông, mẹ là bà Hạo Nương cung phi thứ chín.  Hoàng tử sinh ngày 13 tháng chạp năm Giáp Thìn (1064) tại Thị Trại. Thuở ấy, nhà Tống muốn chiếm nước Đại Việt bèn cử hàng vạn binh hùng tướng mạnh, phối hợp với quân Chiêm kéo đến xâm lược nước ta. Thế giặc rất mạnh. Kinh thành náo động, nhà vua lo lắng đã sai sứ giả đi chiêu mộ người tài, đánh giặc cứu nước. Sứ giả tới Thị Trại, hoàng tử nói với sứ giả về tâu vua sắm cho một lá cờ hồng, một cây giáo dài, một thớt voi để đi đánh giặc. Nhà vua chuẩn y theo lời hoàng tử, còn cấp cho 5.000 binh mã. Hoàng tử tuyển thêm 121 nghĩa sĩ của Thị Trại.
Sắp đặt quân tướng xong hoàng tử thét lớn: “Ta là Thiên tướng!”, con voi liền phục xuống để hoàng tử ngự lên (bởi vậy ngôi đền mới có tên là Voi Phục). Trận ấy tướng giặc hồn kinh phách tán, quân giặc đại bại… Với tấm lòng đại dũng, đại nhân, đại nghĩa, hoàng tử đã không giết mà tha cho chúng trở về cố quốc.
Sau khi thắng trận, Linh Lang trở về đất cũ được ít lâu thì hóa ở đấy. Nhà vua phong tước cho Linh Lang và cho sửa lại nơi ở cũ của người để làm đền thờ, đổi địa danh Thị Trại thành Thủ Lệ và cho dân làng được miễn phu phen tạp dịch.
Để ghi nhớ công lao to lớn của ngài, các triều đại lịch sử đều sắc phong “Thượng Đẳng thần”. Những nơi lá cờ hồng bay đến đều lập đền, đình… tôn thờ ngài”.
Đã  ngàn năm qua, nhân dân Thủ Lệ, với trọng trách “giữ Lệ” phát huy truyền thống “uống nước nhớ nguồn” ngày đêm hương đăng phụng thờ đức thánh. Các dịp lễ, tết, hóa, khánh hạ… hằng năm thường mở hội để khách thập phương về đền, dâng hương tri ân đức thánh.
Chúng tôi kết thúc chuyến đi vào một buổi chiều nhạt nắng. Ấn tượng đọng lại trong lòng kẻ lữ hành là cảm giác thanh tịnh, yên bình cùng một tấm lòng sùng kính thần linh về “tứ trấn Thăng Long” - những nơi vẫn hằng ngày, hằng giờ sống chung với những con đường, góc phố buôn bán tấp nập, giữa chốn thành thị ồn ào, huyên náo. 

Quảng Trường Ba Đình

Quảng Trường Ba Đình, quảng trường ba đình, quang truong ba dinh

Vị trí: Ba Đình, Hà Nội
Quảng trường Ba Đình là quảng trường lớn nhất Việt Nam, nằm trên đường Hùng Vương và trước Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quảng trường này còn là nơi ghi nhận nhiều dấu ấn quan trọng trong lịch sử Việt Nam, đặc biệt, vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quảng trường Ba Đình ngày nay có khuôn viên với chiều dài 320m và rộng 100m, có 168 ô cỏ, xen giữa là lối đi rộng 1,4m. Giữa quảng trường là cột cờ cao 25m. Đây là nơi diễn ra các cuộc diễu hành nhân dịp các ngày lễ lớn của Việt Nam, và cũng là một địa điểm tham quan, vui chơi, dạo mát của du khách và người dân Hà Nội.


Trước đây, nơi đây là một khu vực này nằm trong phạm vi Hoàng Thành Thăng Long. Thời Gia Long, năm 1808, Hoàng Thành bị phá dỡ để xây lại một ngôi thành mới nhỏ hơn nhiều để làm trị sở cho Bắc Thành. Khu vực Quảng trường Ba Đình ngày nay tương ứng với khu cửa Tây của ngôi thành mới, được Minh Mạng đổi tên thành thành Hà Nội vào năm 1831. Khu vực này bấy giờ có một gò đất cao được gọi là núi Khán, hay Khán Sơn.

Giữa thế kỷ XIX, do đề nghị của Bố chính Hà Nội Lê Hữu Thanh, Tổng đốc Hà Ninh Hoàng Thu đã cùng một số quan lại bỏ tiền xây một ngôi nhà ngói trên núi Khán, gọi là Khán Sơn đình làm chỗ hội họp các văn nhân. Vì vậy, có thời kỳ nơi đây nổi tiếng trong sinh hoạt văn hóa của nhân sĩ Bắc Hà.

Sau khi kiểm soát được toàn bộ Đông Dương, năm 1894, quân Pháp cho phá dỡ toàn bộ thành, chỉ giữ lại cửa Bắc để làm kỷ niệm. Khu vực này được các kiến trúc sư Pháp quy hoạch để xây dựng trung tâm hành chính của Liên bang Đông Dương. Núi Khán bị san bằng. Một vườn hoa nhỏ được xây dựng tại khu vực này, tạo thành một quảng trường rộng lớn được đặt tên là Vườn hoa Pugininer (Le parc Pugininer). Vườn hoa được giới hạn bởi các con đường Avenue de la République, Avenue Brière de lIsle, Rue Elie Groleau, và Avenue Puginier.

Một vòng xoay nhỏ được xây dựng gần đó cũng được đặt tên là Vòng xoay Pugininer (Rond-point Pugininer). Do hình dáng đặc biệt của vòng xoay mà người dân Hà Nội còn gọi vườn hoa Pugininer là Quảng trường Tròn.

Tại khu vực gần Quảng trường Tròn, Phủ Toàn quyền được khởi công xây dựng vào năm 1901. Năm 1914, trường sở của Lycée Paul Bert được xây dựng tại vị trí núi Khán trước kia, ngay cạnh Vườn hoa Pugininer.

Để độc chiếm quyền kiểm soát Đông Dương, ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Nhằm lôi kéo sự ủng hộ của người Việt, quân đội Nhật tuyên bố công nhận độc lập cho Việt Nam. Một chính phủ của người Việt do quân đội Nhật hậu thuẫn được thành lập ngày 20 tháng 7 năm 1945, do học giả Trần Trọng Kim làm Thủ tướng đại diện Đế quốc Việt Nam. Bác sĩ Trần Văn Lai được cử làm Đốc lý Hà Nội (Thị trưởng). Vốn là một trí thức có tinh thần dân tộc, ngay sau khi nhận chức, ông đã quyết định đổi một loạt tên đường phố từ tiếng Pháp sang tiếng Việt lấy theo tên của các vị anh hùng Việt Nam như: Phố Garnier thành phố Đinh Tiên Hoàng, phố Boulevard Carnot thành phố Phan Đình Phùng... Vườn hoa Pugininer trước Phủ Toàn quyền được ông đổi tên thành Vườn hoa Ba Đình để kỷ niệm vùng Ba Đình ở Thanh Hóa, nơi đã nổ ra cuộc khởi nghĩa chống Pháp kéo dài từ tháng 9 năm 1886 đến tháng 1 năm 1887.Quảng trường Độc Lập

Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh, chính phủ Trần Trọng Kim mất đi chỗ hậu thuẫn cũng nhanh chóng sụp đổ. Việt Minh chớp thời cơ giành chính quyền và ra mắt quốc dân. Một Ban Tổ chức ngày lễ Độc lập do ông Nguyễn Hữu Đang được cử làm Trưởng Ban, được thành lập ngày ngày 28 tháng 8 năm 1945. Ban Tổ chức quyết định dựng một lễ đài để Chính phủ Lâm thời ra mắt quốc dân, giao cho họa sĩ Lê Văn Đệ và kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh thiết kế và thi công. Lễ đài được xây dựng với vật liệu chủ yếu là gỗ và đinh sắt, trang trí bằng vải, huy động nhân công quần chúng thi công, nhanh chóng hoàn thành chỉ trong 48 giờ, từ ngày 30 tháng 8 đến ngày 1 tháng 9 năm 1945. Chính trên lễ đài này, sáng ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt quốc dân và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lễ đài được dỡ bỏ nhanh chóng ngay chiều ngày hôm đó.


Với sự kiện này, Vườn hoa Ba Đình được người dân Hà Nội mệnh danh là Quảng trường Ba Đình hay Quảng trường Độc Lập và đoạn phố Puginier cũng được gọi tên là đường Độc Lập.

Mặc dù người Pháp vẫn dùng các tên cũ sau khi họ tái chiếm Đông Dương, nhưng người Việt Nam vẫn dùng các tên gọi của mình như một sự tự hào về những nỗ lực của họ để giành độc lập. Những tên gọi đó, chính thức được sử dụng kể từ khi họ chính thức nắm quyền kiểm soát lại Hà Nội.

http://www.skydoor.net/Download?mode=photo&id=7400

  Đến Hà Nội bạn hãy thưởng thức một trong những món này nhé:

1. Phở bò Hà Nội

Phở là món ăn truyền thống của người Việt, cũng có thể xem là một trong những món ăn đặc trưng nhất cho ẩm thực Việt Nam. Trong đó, nổi tiếng nhất là phở bò Hà Nội.
Phở “xếp hàng” Bát Đàn đặc trưng cho phở Hà Nội truyền thống.

2. Bún chả Hà Nội

Với một phong cách ẩm thực không cầu kỳ, kiểu cách, bún chả trở thành món ăn đặc sắc mà dù ai đi xa cũng nhớ về hương vị quê nhà.
Bún chả bọc lá xương sông độc đáo tại ngõ chợ Đồng Xuân.

3. Bún thang Hà Nội

Bún thang, với cách thức chế biển đòi hỏi sự tỉ mỉ, cẩn thận, kỳ công từ người đầu bếp cũng là một trong những món ăn đặc trưng chứa đựng vô vàn nét tinh túy của ẩm thực Hà thành.
4 địa chỉ bún thang nổi tiếng: phố Cầu Gỗ, số 11 Hàng Hòm, số 11 Hạ Hồi, khu D4 Giảng Võ.

4. Chả cá Lã Vọng

Món chả cá Lã Vọng trứ danh và nhà hàng Chả cá Lã Vọng tại số 14 Chả Cá là nhà hàng Việt Nam duy nhất được chuyên mục du lịch của Hãng tin hàng đầu nước Mỹ MSNBC xếp vị trí thứ 5 trong “10 nơi nên biết trước khi chết”.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét