Đền Quán Thánh

Đền Quán Thánh nằm trên đất phường Quán Thánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, cạnh bên Hồ Tây và cửa Bắc Thành Hà Nội. Đây là một trong Thăng Long tứ trấn và Thăng Long tứ quán xưa.
Đến thăm thú ở Hà Nội bạn có thể dễ dàng chọn cho mình một khách sạn ở hà nội phù hợp với mình. Bạn có thể chọn Khách Sạn Royal Gate ở 9 Nguyễn Biểu, Q. Ba Đình, Hà Nội.
Từ khách sạn, bạn chỉ cần tản bộ khoảng 5 phút là đến khu vực Lăng Chủ tịch hay những danh lam thắng cảnh khác của Hà Nội như: Hồ Hoàn Kiếm, Phố Cổ (15 Phút đi taxi), Hồ Trúc Bạch, Hồ Tây (5 Phút đi bộ)...Nằm Trên đường 2 chiều Nguyễn Biểu, khách sạn không bị bó hẹp bởi không gian vốn rất "chật chội" của thủ đô mà có một không gian thoáng đãng với chỗ đỗ xe cho oto 5-7 chỗ ngay trước khách sạn, tầng hầm để xe. Đi vào khách sạn, mở ra trước mắt là sảnh rộng và sắp xếp rất tinh tế mà ít khách sạn nào có được.
Khách sạn có nhà hàng rộng đủ chỗ cho 70 đến 80 người, rất thuận tiện cho tổ chức tiệc. Nhà hàng nằm trên tầng 11 nên có view ra Hồ Tây rất đẹp, lãng mạn.
Tầng 12 của khách sạn là phòng họp rộng rãi cho 20 - 30 người, nếu công ty cần tổ chức hội họp thì đây là sự lựa chọn hoàn hảo

Trước đây, nơi đây là một khu vực này nằm trong phạm vi Hoàng Thành Thăng Long. Thời Gia Long, năm 1808, Hoàng Thành bị phá dỡ để xây lại một ngôi thành mới nhỏ hơn nhiều để làm trị sở cho Bắc Thành. Khu vực Quảng trường Ba Đình ngày nay tương ứng với khu cửa Tây của ngôi thành mới, được Minh Mạng đổi tên thành thành Hà Nội vào năm 1831. Khu vực này bấy giờ có một gò đất cao được gọi là núi Khán, hay Khán Sơn.
Giữa thế kỷ XIX, do đề nghị của Bố chính Hà Nội Lê Hữu Thanh, Tổng đốc Hà Ninh Hoàng Thu đã cùng một số quan lại bỏ tiền xây một ngôi nhà ngói trên núi Khán, gọi là Khán Sơn đình làm chỗ hội họp các văn nhân. Vì vậy, có thời kỳ nơi đây nổi tiếng trong sinh hoạt văn hóa của nhân sĩ Bắc Hà.
Sau khi kiểm soát được toàn bộ Đông Dương, năm 1894, quân Pháp cho phá dỡ toàn bộ thành, chỉ giữ lại cửa Bắc để làm kỷ niệm. Khu vực này được các kiến trúc sư Pháp quy hoạch để xây dựng trung tâm hành chính của Liên bang Đông Dương. Núi Khán bị san bằng. Một vườn hoa nhỏ được xây dựng tại khu vực này, tạo thành một quảng trường rộng lớn được đặt tên là Vườn hoa Pugininer (Le parc Pugininer). Vườn hoa được giới hạn bởi các con đường Avenue de la République, Avenue Brière de lIsle, Rue Elie Groleau, và Avenue Puginier.
Một vòng xoay nhỏ được xây dựng gần đó cũng được đặt tên là Vòng xoay Pugininer (Rond-point Pugininer). Do hình dáng đặc biệt của vòng xoay mà người dân Hà Nội còn gọi vườn hoa Pugininer là Quảng trường Tròn.
Tại khu vực gần Quảng trường Tròn, Phủ Toàn quyền được khởi công xây dựng vào năm 1901. Năm 1914, trường sở của Lycée Paul Bert được xây dựng tại vị trí núi Khán trước kia, ngay cạnh Vườn hoa Pugininer.
Để độc chiếm quyền kiểm soát Đông Dương, ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Nhằm lôi kéo sự ủng hộ của người Việt, quân đội Nhật tuyên bố công nhận độc lập cho Việt Nam. Một chính phủ của người Việt do quân đội Nhật hậu thuẫn được thành lập ngày 20 tháng 7 năm 1945, do học giả Trần Trọng Kim làm Thủ tướng đại diện Đế quốc Việt Nam. Bác sĩ Trần Văn Lai được cử làm Đốc lý Hà Nội (Thị trưởng). Vốn là một trí thức có tinh thần dân tộc, ngay sau khi nhận chức, ông đã quyết định đổi một loạt tên đường phố từ tiếng Pháp sang tiếng Việt lấy theo tên của các vị anh hùng Việt Nam như: Phố Garnier thành phố Đinh Tiên Hoàng, phố Boulevard Carnot thành phố Phan Đình Phùng... Vườn hoa Pugininer trước Phủ Toàn quyền được ông đổi tên thành Vườn hoa Ba Đình để kỷ niệm vùng Ba Đình ở Thanh Hóa, nơi đã nổ ra cuộc khởi nghĩa chống Pháp kéo dài từ tháng 9 năm 1886 đến tháng 1 năm 1887.Quảng trường Độc Lập
Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh, chính phủ Trần Trọng Kim mất đi chỗ hậu thuẫn cũng nhanh chóng sụp đổ. Việt Minh chớp thời cơ giành chính quyền và ra mắt quốc dân. Một Ban Tổ chức ngày lễ Độc lập do ông Nguyễn Hữu Đang được cử làm Trưởng Ban, được thành lập ngày ngày 28 tháng 8 năm 1945. Ban Tổ chức quyết định dựng một lễ đài để Chính phủ Lâm thời ra mắt quốc dân, giao cho họa sĩ Lê Văn Đệ và kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh thiết kế và thi công. Lễ đài được xây dựng với vật liệu chủ yếu là gỗ và đinh sắt, trang trí bằng vải, huy động nhân công quần chúng thi công, nhanh chóng hoàn thành chỉ trong 48 giờ, từ ngày 30 tháng 8 đến ngày 1 tháng 9 năm 1945. Chính trên lễ đài này, sáng ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt quốc dân và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lễ đài được dỡ bỏ nhanh chóng ngay chiều ngày hôm đó.
Với sự kiện này, Vườn hoa Ba Đình được người dân Hà Nội mệnh danh là Quảng trường Ba Đình hay Quảng trường Độc Lập và đoạn phố Puginier cũng được gọi tên là đường Độc Lập.
Mặc dù người Pháp vẫn dùng các tên cũ sau khi họ tái chiếm Đông Dương, nhưng người Việt Nam vẫn dùng các tên gọi của mình như một sự tự hào về những nỗ lực của họ để giành độc lập. Những tên gọi đó, chính thức được sử dụng kể từ khi họ chính thức nắm quyền kiểm soát lại Hà Nội.
Phở là món ăn truyền thống của người Việt, cũng có thể xem là một trong những món ăn đặc trưng nhất cho ẩm thực Việt Nam. Trong đó, nổi tiếng nhất là phở bò Hà Nội.
2. Bún chả Hà Nội
Với một phong cách ẩm thực không cầu kỳ, kiểu cách, bún chả trở thành món ăn đặc sắc mà dù ai đi xa cũng nhớ về hương vị quê nhà.
3. Bún thang Hà Nội
Bún thang, với cách thức chế biển đòi hỏi sự tỉ mỉ, cẩn thận, kỳ công từ người đầu bếp cũng là một trong những món ăn đặc trưng chứa đựng vô vàn nét tinh túy của ẩm thực Hà thành.
4. Chả cá Lã Vọng
Món chả cá Lã Vọng trứ danh và nhà hàng Chả cá Lã Vọng tại số 14 Chả Cá là nhà hàng Việt Nam duy nhất được chuyên mục du lịch của Hãng tin hàng đầu nước Mỹ MSNBC xếp vị trí thứ 5 trong “10 nơi nên biết trước khi chết”.
Tương
truyền đền có từ đời Lý Thái Tổ (1010-1028), thờ thánh Trấn Vũ - vị
thần trấn giữ phương Bắc. Vì thế, còn có tên là Đền Trấn Võ, Quan Thánh
Trấn Võ, hay Quán Thánh.
Đền
được tu sửa vào năm 1838. Các bộ phận kiến trúc đền sau khi trùng tu
bao gồm: tam quan, sân, ba lớp nhà tiền tế, trung tế, hậu cung. Các mảng
chạm, khắc trên gỗ có giá trị nghệ thuật rất cao. Bố cục không gian
rất thoáng và hài hòa. Hồ Tây trước mặt tạo cho đền luôn có không khí
mát mẻ quanh năm.
Ngôi
đền hiện nay đã được sửa chữa nhiều lần. Năm Đinh Tỵ niên hiệu Vĩnh
Trị II (1677), đời Lê Hy Tông, chúa Trịnh Tạc sai đình thần là Nguyễn
Đình Luân trùng tu. Tượng Huyền Thiên Trấn Vũ được triều đình cho đúc
lại bằng đồng đen (hun). Tợng cao 3,07m, chu vi 8m. Tượng mặt vuông,
mắt nhìn thẳng, râu dài, tóc xoã không đội mũ, mặc áo đạo sĩ, ngồi trên
bục đá, tay trái bắt quyết, tay phải chống gươm có rắn quấn và chống
lên lưng một con rùa. Tượng Huyền Thiên Trấn Vũ là một công trình nghệ
thuật độc đáo, đánh dấu kỹ thuật đúc đồng và tài nghệ của dân ta cách
đây 3 thế kỷ. Tại nhà bái đường còn một pho tượng nữa, nhỏ hơn, cũng
bằng đồng đen, nhiều người cho rằng đây là tượng ông Trùm Trọng, người
thợ cả đã chỉ huy việc đúc pho tượng Trấn Vũ. Tượng này là do các học
trò của ông đúc để ghi nhớ công ơn của thầy. Cùng đúc với tượng là quả
chuông cao gần 1,5m treo ở gác tam quan.

Văn
bia tại đền do trạng nguyên Đặng Công Chất và tiến sĩ Hồ Sĩ Dương
soạn. Thời Tây Sơn, đô đốc Lê Văn Ngữ, cùng nhiều người nữa đã quyên
tiền đúc chiếc khánh bằng đồng (chiều 1,10 x 1,25m) vào năm Cảnh Thịnh
thứ hai. Đến đời Nguyễn, vua Minh Mạng đến thăm đền, đã cấp tiền tu sửa.
Năm
1842, vua Thiệu Trị đến thăm và dâng một đồng tiền vàng, cộng với số
tiền vàng do các hoàng thân dâng, đúc lại thành vòng. Vòng dùng sợi dây
bạc xâu để treo ở cổ tay tượng thần. Đằng sau đền lại đắp hòn núi non
bộ trong một bể con và dựng một đền nhỏ gọi là Vũ Đương Sơn. Sửa chữa
xong, có dựng bia do tiến sĩ Lê Hy Vĩnh soạn.

Các
bộ phận kiến trúc hiện thấy, là kết quả của lần trùng tu lớn, hồi thế
kỷ 19, bao gồm: tam quan, sân, ba lớp nhà tiền đế, trung đế, hậu cung. Ở
đây có pho tượng bằng đồng đen, cao gần 4m, nặng gần 4 tấn, đúc năm
1677 để thể hiện lòng ngưỡng mộ của nhân dân với thánh Trấn Vũ
Trong
đền có bức tượng Trấn Vũ đúc bằng đồng đen năm 1667, cao 3,69 m, nặng
khoảng 4 tấn. Tượng có hình dáng một Đạo sĩ ngồi, y phục gọn gàng nhưng
tóc lại bỏ xõa, chân không mang giày, tay trái bắt quyết, tay phải
chống gươm thần có rắn quấn quanh và chống lên lưng rùa. Tượng Trấn Vũ
là một công trình nghệ thuật độc đáo duy nhất tại Việt Nam, khẳng định
nghệ thuật đúc đồng và tạc tượng của người Hà Nội cách đây ba thế kỷ.
Ngoài
nghệ thuật đúc đồng, đền Quán Thánh còn nổi tiếng với vẻ đẹp của nghệ
thuật chạm khắc gỗ. Trên các bộ phận kiến trúc bằng gỗ của ngôi đền các
đề tài như tứ linh, dơi, cá, tùng, trúc, cúc, mai, lẵng hoa, bầu rượu,
thanh gươm, cảnh sinh hoạt của trần gian và thượng giới... được chạm
khắc một cách tinh xảo mang đậm phong cách nghệ thuật thời Lê.
Không
chỉ là một công trình có giá trị về mặt lịch sử và kiến trúc, đền Quán
Thánh còn là nơi sinh hoạt tín ngưỡng văn hóa nổi tiếng của người dân
Hà Nội xưa và nay. Trải qua gần một thiên niên kỷ nhưng ngôi đền
vẫn còn nguyên vẹn.
Từ khách sạn, bạn chỉ cần tản bộ khoảng 5 phút là đến khu vực Lăng Chủ tịch hay những danh lam thắng cảnh khác của Hà Nội như: Hồ Hoàn Kiếm, Phố Cổ (15 Phút đi taxi), Hồ Trúc Bạch, Hồ Tây (5 Phút đi bộ)...Nằm Trên đường 2 chiều Nguyễn Biểu, khách sạn không bị bó hẹp bởi không gian vốn rất "chật chội" của thủ đô mà có một không gian thoáng đãng với chỗ đỗ xe cho oto 5-7 chỗ ngay trước khách sạn, tầng hầm để xe. Đi vào khách sạn, mở ra trước mắt là sảnh rộng và sắp xếp rất tinh tế mà ít khách sạn nào có được.
Khách sạn có nhà hàng rộng đủ chỗ cho 70 đến 80 người, rất thuận tiện cho tổ chức tiệc. Nhà hàng nằm trên tầng 11 nên có view ra Hồ Tây rất đẹp, lãng mạn.
Tầng 12 của khách sạn là phòng họp rộng rãi cho 20 - 30 người, nếu công ty cần tổ chức hội họp thì đây là sự lựa chọn hoàn hảo
Các điểm đến gần đó :
Tứ trấn Thăng Long

“Tứ
trấn Thăng Long”, bốn ngôi đền thiêng trấn giữ những vị trí huyết mạch
trên đất Hà thành. Chuyến đi đúng vào dịp “tứ trấn” đang được trùng
tu, tôn tạo. Dẫu vậy trong cái rủi lại có cái may, bởi lần đầu tiên
chúng tôi bị hút vào một thế giới của sự thâm trầm cố hữu, sự uy linh
và huyền diệu của đền thờ, miếu mạo.
Qua đền Quán Thánh, vào Bạch Mã
Cổng đền Voi Phục |
Tòa nhà Đại bái đền Quán Thánh với hai bên tả, hữu thờ Thanh Long, Bạch Hổ |
Tượng Huyền Thiên Trấn Vũ uy nghi đặt tại điện thờ |
Cổng tam quan của đền Kim Liên |
Điểm
đến đầu tiên của chúng tôi là đền Quán Thánh (còn gọi là Trấn Vũ Quán)
- nơi thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, vị thần trấn cửa Bắc thành Thăng Long
xưa. Nay đền nằm ở điểm quy tụ ngã tư đường Thanh Niên, đường Quán
Thánh, thuộc phường Quán Thánh, quận Ba Đình, Hà Nội. Sử sách chép: đền
có từ thời Cao Biền (thế kỷ 9) ở phía nam sông Tô Lịch. Sau Lý Thái Tổ
dời đô (1010), mở rộng thành cũ đã dời đền về Tây Bắc thành (tức vị
trí hiện nay).
Cổng
tam quan vào đền hiện đang được tu sửa, nhưng phía trong sân đền từng
đoàn du khách tấp nập kéo vào nhà Đại bái và Mật cung. Tòa Đại bái cao
ráo, nguy nga với cột xà, cửa võng đều sơn son thếp vàng. Hai bên tả,
hữu treo biển đồng chữ bạc của vua Thiệu Trị ban, trên có khắc bài thơ
của chính ông và một khánh đồng do một đại đô đốc thời Tây Sơn cung
tiến, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 2 (1795).
Ấn
tượng nhất là trong nội cung có pho tượng Huyền Thiên Trấn Vũ, được
đúc vào năm 1676-1704 đặt ở mặt điện. Tượng bằng đồng đen, cao 3,96m,
nặng 4.000kg, ngồi oai nghiêm trên một bệ đá, mặt vuông, mắt nhìn
thẳng, râu dài, đầu không đội mũ, tóc xõa ra sau lưng, mình mặc đồ đạo
sĩ màu đen, đi chân đất. Tay trái tượng xòe ngón trỏ giơ lên trước
ngực để bắt quyết, tay phải chống kiếm lên lưng rùa, thân kiếm có rắn
quấn (rắn tượng trưng cho sức mạnh, rùa tượng trưng cho sự trường tồn
của thần). Pho tượng là một công trình nghệ thuật phản ánh kỹ thuật đúc
đồng và nghệ thuật tạc tượng điêu luyện của ông cha ta thế kỷ 17.
Rời
đền Quán Thánh, men theo đường Phan Đình Phùng, rẽ vào phố Hàng Cót,
qua phố Hàng Gà và đi thẳng vào phố Lãn Ông, chúng tôi tìm đến số nhà 76
phố Hàng Buồm, nơi đền Bạch Mã tọa lạc. Đây là một di tích hoàn chỉnh
và biệt lập, xây dựng theo hướng đông nam, sát hè phố Hàng Buồm, trên
khu đất có chiều dài 37,33m, rộng 15,96m.
Đền
có quy mô lớn, mặt bằng tổng thể bao gồm các công trình kiến trúc trên
một trục chính gồm: Nghi môn, Phương đình, Tiền tế, Trung tế và Hậu
cung. Đền có 17 bức hoành phi, văn bia nói về thần Long Đỗ, cùng các
nghi lễ cúng thần và các lần trùng tu tôn tạo. Nét đặc biệt ở đây là
những con nghê trên xà ngang, những lồng đèn hình hoa sen trên đầu bốn
xà nách và những họa tiết bài trí trên các ô cửa đều có phong cách gần
gũi với phong cách kiến trúc của các phương đình tại hội quán Hội An và
một số hội quán phía Nam hơn là kiến trúc phương đình ở phía Bắc.
Đền
Bạch Mã thờ thần Long Đỗ, vị thần thành hoàng của kinh thành Thăng
Long xưa. Tương truyền năm 1010 Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư ra Thăng
Long, định đắp thành nhưng nhiều lần đắp lên lại bị đổ. Vua cho người
cầu khấn ở đền Long Đỗ thì thấy một ngựa trắng từ đền đi ra. Vua lần
theo vết chân ngựa vẽ đồ án xây thành, thành mới đứng vững. Về sau nhà
vua sai tạc một con ngựa trắng để thờ và ban sắc phong cho thần làm
“Thăng Long thành hoàng đại vương”. Vì thế gọi đây là đền Bạch Mã (đền
ngựa trắng).
Đền
đứng trấn phía đông nên được coi là một trong “tứ trấn Thăng Long” của
kinh thành xưa. Trải qua các triều đại, đền được người đời ca tụng là
chốn “vạn cổ anh linh” (muôn thuở linh thiêng). Một nhà thơ khuyết danh
đã đề thơ ca ngợi đền:
Hiển hách thần uy nhất dạ linh phong đằng bảo mã
Huy hoàng hỏa đức thiên thu vượng khí trấn Thăng Long.
Huy hoàng hỏa đức thiên thu vượng khí trấn Thăng Long.
Dịch:
Hiển hách uy thần, một tối gió thiêng phi ngựa báu
Huy hoàng đức thánh, nghìn thu vượng khí đất Thăng Long.
Huy hoàng đức thánh, nghìn thu vượng khí đất Thăng Long.
Dọc xuống Kim Liên, rẽ ngang Voi Phục
Gần
một tiếng, từ đền Bạch Mã dọc xuống phố Kim Hoa, chúng tôi đến đình
Kim Liên (còn có tên là đền Cao Sơn). Đình được xây dựng trên một gò
đất cao, quay mặt về hướng nam.
Ấn
tượng đầu tiên là cổng tam quan. Đó là một nếp nhà ba gian, xây kiểu
tường hồi bít đốc có niên đại từ thời Nguyễn. Đền chính có kết cấu hình
chữ “Đinh” gồm Bái đường và Hậu cung.
Tòa
Bái đường là một nền đất cao với những hàng đá tảng kê chân cột to,
dày. Tòa Hậu cung là một dãy nhà dọc ba gian xây gạch trần, mái lợp ngói
ta. Trong nhà xây vòm cuốn, gian ngoài cùng bó bệ gạch cao để đặt
hương án chạm gỗ sơn son thếp vàng. Phần thân của hương án được bố trí
đậm đặc các hình trang trí trong những ô chữ nhật, các hoa văn được thể
hiện bằng kỹ thuật chạm thủng, chạm nổi với nhiều đề tài phong phú
như: hổ phù, long mã tranh châu, tứ linh, tứ quý, bát bửu…
Các
thư tịch, văn bia về di tích đều khẳng định đình Kim Liên là nơi thờ
thần Cao Sơn, một nhân vật quan trọng trong Điện Thần Việt cổ. Dưới
triều Lê, lúc Lê Mẫn (Uy Mục đế) thất đức, có mưu đồ lật đổ vua Lê Tương
Dực, tháng 11 năm Kỷ Tỵ (1509)đức vua lánh nạn vào Tây Đô dấy binh,
khôi phục cơ nghiệp, cứu vớt dân lành.
Bấy
giờ các danh tướng là Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Hoằng Dụ, Nguyễn Văn Lữ
phụng mệnh mang quân đi chinh phạt. Khi gặp ngôi đền, bên trong dựng một
tảng đá đề dòng chữ “Cao Sơn Đại Vương” thấy vậy làm kinh ngạc bèn cúi
lạy ngầm khấn… Không đầy một tuần nghiệp lớn đã thành công. Năm đó vào
ngày 2 tháng chạp, nhà vua lên ngôi báu, giành lại ngai vàng. Nghĩ đến
ơn thần đã ngầm giúp, năm 1509 vua Lê Tương Dực cho dựng lại đền to
đẹp hơn ở phường Kim Hoa gần Thăng Long lúc bấy giờ, sai sử thần Lê
Tung soạn văn bia lưu truyền mãi mãi để sớm hôm hương khói báo đáp ơn
thần.
Dọc
theo phố Kim Hoa, rẽ ngang qua Đê La Thành, tới đường Kim Mã là đã đặt
chân đến đền Voi Phục. Đền thờ Đức Thánh Linh Lang Đại Vương, nên có
tên gọi khác là “Linh Lang từ”. Đền được xây dựng vào đời vua Lý Thánh
Tông (1054-1072) trên một khu gò cao thuộc vùng Thủ Lệ, nay thuộc
phường Cầu Giấy, quận Ba Đình, Hà Nội.
Tên
gọi của đền (Voi Phục) gắn bó với sự tích của Linh Lang Đại Vương,
người anh hùng có công dẹp giặc, bảo vệ đất nước. Sử tích chép: “Đức
Thánh nguyên là hoàng tử thứ tư của Lý Thánh Tông, mẹ là bà Hạo Nương
cung phi thứ chín. Hoàng tử sinh ngày 13 tháng chạp năm Giáp Thìn
(1064) tại Thị Trại. Thuở ấy, nhà Tống muốn chiếm nước Đại Việt bèn cử
hàng vạn binh hùng tướng mạnh, phối hợp với quân Chiêm kéo đến xâm lược
nước ta. Thế giặc rất mạnh. Kinh thành náo động, nhà vua lo lắng đã sai
sứ giả đi chiêu mộ người tài, đánh giặc cứu nước. Sứ giả tới Thị Trại,
hoàng tử nói với sứ giả về tâu vua sắm cho một lá cờ hồng, một cây
giáo dài, một thớt voi để đi đánh giặc. Nhà vua chuẩn y theo lời hoàng
tử, còn cấp cho 5.000 binh mã. Hoàng tử tuyển thêm 121 nghĩa sĩ của Thị
Trại.
Sắp
đặt quân tướng xong hoàng tử thét lớn: “Ta là Thiên tướng!”, con voi
liền phục xuống để hoàng tử ngự lên (bởi vậy ngôi đền mới có tên là Voi
Phục). Trận ấy tướng giặc hồn kinh phách tán, quân giặc đại bại… Với
tấm lòng đại dũng, đại nhân, đại nghĩa, hoàng tử đã không giết mà tha
cho chúng trở về cố quốc.
Sau
khi thắng trận, Linh Lang trở về đất cũ được ít lâu thì hóa ở đấy. Nhà
vua phong tước cho Linh Lang và cho sửa lại nơi ở cũ của người để làm
đền thờ, đổi địa danh Thị Trại thành Thủ Lệ và cho dân làng được miễn
phu phen tạp dịch.
Để
ghi nhớ công lao to lớn của ngài, các triều đại lịch sử đều sắc phong
“Thượng Đẳng thần”. Những nơi lá cờ hồng bay đến đều lập đền, đình… tôn
thờ ngài”.
Đã
ngàn năm qua, nhân dân Thủ Lệ, với trọng trách “giữ Lệ” phát huy
truyền thống “uống nước nhớ nguồn” ngày đêm hương đăng phụng thờ đức
thánh. Các dịp lễ, tết, hóa, khánh hạ… hằng năm thường mở hội để khách
thập phương về đền, dâng hương tri ân đức thánh.
Chúng
tôi kết thúc chuyến đi vào một buổi chiều nhạt nắng. Ấn tượng đọng lại
trong lòng kẻ lữ hành là cảm giác thanh tịnh, yên bình cùng một tấm
lòng sùng kính thần linh về “tứ trấn Thăng Long” - những nơi vẫn hằng
ngày, hằng giờ sống chung với những con đường, góc phố buôn bán tấp
nập, giữa chốn thành thị ồn ào, huyên náo. Quảng Trường Ba Đình



Trước đây, nơi đây là một khu vực này nằm trong phạm vi Hoàng Thành Thăng Long. Thời Gia Long, năm 1808, Hoàng Thành bị phá dỡ để xây lại một ngôi thành mới nhỏ hơn nhiều để làm trị sở cho Bắc Thành. Khu vực Quảng trường Ba Đình ngày nay tương ứng với khu cửa Tây của ngôi thành mới, được Minh Mạng đổi tên thành thành Hà Nội vào năm 1831. Khu vực này bấy giờ có một gò đất cao được gọi là núi Khán, hay Khán Sơn.
Giữa thế kỷ XIX, do đề nghị của Bố chính Hà Nội Lê Hữu Thanh, Tổng đốc Hà Ninh Hoàng Thu đã cùng một số quan lại bỏ tiền xây một ngôi nhà ngói trên núi Khán, gọi là Khán Sơn đình làm chỗ hội họp các văn nhân. Vì vậy, có thời kỳ nơi đây nổi tiếng trong sinh hoạt văn hóa của nhân sĩ Bắc Hà.
Sau khi kiểm soát được toàn bộ Đông Dương, năm 1894, quân Pháp cho phá dỡ toàn bộ thành, chỉ giữ lại cửa Bắc để làm kỷ niệm. Khu vực này được các kiến trúc sư Pháp quy hoạch để xây dựng trung tâm hành chính của Liên bang Đông Dương. Núi Khán bị san bằng. Một vườn hoa nhỏ được xây dựng tại khu vực này, tạo thành một quảng trường rộng lớn được đặt tên là Vườn hoa Pugininer (Le parc Pugininer). Vườn hoa được giới hạn bởi các con đường Avenue de la République, Avenue Brière de lIsle, Rue Elie Groleau, và Avenue Puginier.
Một vòng xoay nhỏ được xây dựng gần đó cũng được đặt tên là Vòng xoay Pugininer (Rond-point Pugininer). Do hình dáng đặc biệt của vòng xoay mà người dân Hà Nội còn gọi vườn hoa Pugininer là Quảng trường Tròn.
Tại khu vực gần Quảng trường Tròn, Phủ Toàn quyền được khởi công xây dựng vào năm 1901. Năm 1914, trường sở của Lycée Paul Bert được xây dựng tại vị trí núi Khán trước kia, ngay cạnh Vườn hoa Pugininer.
Để độc chiếm quyền kiểm soát Đông Dương, ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Nhằm lôi kéo sự ủng hộ của người Việt, quân đội Nhật tuyên bố công nhận độc lập cho Việt Nam. Một chính phủ của người Việt do quân đội Nhật hậu thuẫn được thành lập ngày 20 tháng 7 năm 1945, do học giả Trần Trọng Kim làm Thủ tướng đại diện Đế quốc Việt Nam. Bác sĩ Trần Văn Lai được cử làm Đốc lý Hà Nội (Thị trưởng). Vốn là một trí thức có tinh thần dân tộc, ngay sau khi nhận chức, ông đã quyết định đổi một loạt tên đường phố từ tiếng Pháp sang tiếng Việt lấy theo tên của các vị anh hùng Việt Nam như: Phố Garnier thành phố Đinh Tiên Hoàng, phố Boulevard Carnot thành phố Phan Đình Phùng... Vườn hoa Pugininer trước Phủ Toàn quyền được ông đổi tên thành Vườn hoa Ba Đình để kỷ niệm vùng Ba Đình ở Thanh Hóa, nơi đã nổ ra cuộc khởi nghĩa chống Pháp kéo dài từ tháng 9 năm 1886 đến tháng 1 năm 1887.Quảng trường Độc Lập
Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh, chính phủ Trần Trọng Kim mất đi chỗ hậu thuẫn cũng nhanh chóng sụp đổ. Việt Minh chớp thời cơ giành chính quyền và ra mắt quốc dân. Một Ban Tổ chức ngày lễ Độc lập do ông Nguyễn Hữu Đang được cử làm Trưởng Ban, được thành lập ngày ngày 28 tháng 8 năm 1945. Ban Tổ chức quyết định dựng một lễ đài để Chính phủ Lâm thời ra mắt quốc dân, giao cho họa sĩ Lê Văn Đệ và kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh thiết kế và thi công. Lễ đài được xây dựng với vật liệu chủ yếu là gỗ và đinh sắt, trang trí bằng vải, huy động nhân công quần chúng thi công, nhanh chóng hoàn thành chỉ trong 48 giờ, từ ngày 30 tháng 8 đến ngày 1 tháng 9 năm 1945. Chính trên lễ đài này, sáng ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt quốc dân và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lễ đài được dỡ bỏ nhanh chóng ngay chiều ngày hôm đó.
Với sự kiện này, Vườn hoa Ba Đình được người dân Hà Nội mệnh danh là Quảng trường Ba Đình hay Quảng trường Độc Lập và đoạn phố Puginier cũng được gọi tên là đường Độc Lập.
Mặc dù người Pháp vẫn dùng các tên cũ sau khi họ tái chiếm Đông Dương, nhưng người Việt Nam vẫn dùng các tên gọi của mình như một sự tự hào về những nỗ lực của họ để giành độc lập. Những tên gọi đó, chính thức được sử dụng kể từ khi họ chính thức nắm quyền kiểm soát lại Hà Nội.
Đến Hà Nội bạn hãy thưởng thức một trong những món này nhé:
1. Phở bò Hà NộiPhở là món ăn truyền thống của người Việt, cũng có thể xem là một trong những món ăn đặc trưng nhất cho ẩm thực Việt Nam. Trong đó, nổi tiếng nhất là phở bò Hà Nội.
![]() |
Phở “xếp hàng” Bát Đàn đặc trưng cho phở Hà Nội truyền thống. |
2. Bún chả Hà Nội
Với một phong cách ẩm thực không cầu kỳ, kiểu cách, bún chả trở thành món ăn đặc sắc mà dù ai đi xa cũng nhớ về hương vị quê nhà.
![]() |
Bún chả bọc lá xương sông độc đáo tại ngõ chợ Đồng Xuân. |
3. Bún thang Hà Nội
Bún thang, với cách thức chế biển đòi hỏi sự tỉ mỉ, cẩn thận, kỳ công từ người đầu bếp cũng là một trong những món ăn đặc trưng chứa đựng vô vàn nét tinh túy của ẩm thực Hà thành.
![]() |
4 địa chỉ bún thang nổi tiếng: phố Cầu Gỗ, số 11 Hàng Hòm, số 11 Hạ Hồi, khu D4 Giảng Võ. |
4. Chả cá Lã Vọng
Món chả cá Lã Vọng trứ danh và nhà hàng Chả cá Lã Vọng tại số 14 Chả Cá là nhà hàng Việt Nam duy nhất được chuyên mục du lịch của Hãng tin hàng đầu nước Mỹ MSNBC xếp vị trí thứ 5 trong “10 nơi nên biết trước khi chết”.
![]() |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét