Hội quán Hải Nam
Hội quán Hải Nam
Vị trí hội quán Hải Nam nằm ở số 10 Trần Phú - thị xã Hội An::.. Hội
quán còn được gọi là chùa Hải Nam hoặc Quỳnh Phủ hội quán, nằm trên
đường Trần Phú, được xây dựng vào thế kỷ 19
Hội
quán Hải Nam được Hoa kiều bang Hải Nam - Trung Quốc đóng góp tiền của
xây dựng vào năm 1875 làm nơi sinh hoạt cộng đồng và tín ngưỡng riêng
của người Hải Nam và Gia Ứng ở Hội An. Hội quán thờ 108 anh linh của Hoa
thương bị chết oan do lầm là giặc cướp biển, sau đó được vua Tự Đức
minh oan và ban sắc phong Trung Đẳng thần và cho xây hội quán để đời đời
cúng tế.
Các điểm tiếp theo:
Nhà cổ Quân Thắng
(77 đường Trần Phú, Hội An)
Là một trong những nhà cổ được đánh giá là đẹp nhất
Hội An hiện nay. Ngôi nhà có niên đại hơn 150 năm, mang
phong cách kiến trúc vùng Hoa Hạ - Trung Hoa. Qua năm tháng,
ngôi nhà vẫn được bảo tồn khá nguyên trạng về kiểu dáng kiến
trúc và các bài trí nội thất, giúp ta hình dung được phần
nào lối sống của các thế hệ chủ nhân, những người thuộc tầng
lớp thương gia ở thương cảng Hội An trước đây. Được
biết,
toàn bộ phần kiến trúc và điêu khắc gỗ rất sinh động, tinh
tế của ngôi nhà này đều do các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng
- Hội An thực hiện.
Đây là một điểm tham quan chính trong hành trình khám phá di sản văn hoá thế giới Hội An của du khách.

Đây là một điểm tham quan chính trong hành trình khám phá di sản văn hoá thế giới Hội An của du khách.
Nhà cổ Tấn Ký
(10 đường Nguyễn Thái Học, Hội An)
Được xây dựng cách đây gần 200 năm, nhà
cổ Tấn Ký có kiểu
kiến trúc hình ống - đặc trưng của loại nhà phố Hội An, với
nội thất chia làm nhiều gian, mỗi gian có chức năng riêng.
Mặt tiền nhà là nơi để mở cửa hiệu buôn bán, mặt sau thông
với bến sông để làm nơi xuất, nhập hàng hoá. Vật liệu trang
trí nội thất ngôi nhà chủ yếu là các loại gỗ quý và được
trạm trỗ, điêu khắc rất tinh xảo các hình về giao long, hoa
quả, bát bửu, dải lụa... thể hiện sự sung túc của các thế
hệ chủ nhân.
Ngày 17 tháng 2 năm 1990, nhà cổ Tấn Ký đã được cấp bằng di tích lịch sử - văn hoá quốc gia.
Nhà cổ Phùng Hưng (04 đường Nguyễn Thị Minh Khai, Hội An)
Với tuổi thọ hơn 100 năm, nhà
cổ Phùng Hưng có kết cấu độc
đáo với phần gác cao bằng gỗ và các hành lang rộng bao
quanh, thể hiện sự phát triển về kiến trúc và sự giao lưu
giữa các phong cách kiến trúc Á Đông tại Hội An trong các
thế kỷ trước đây. Ngôi nhà chứa đựng nhiều thông tin về lối
sống của tầng lớp các thương nhân ở thương cảng Hội An xưa.
Mặc dù cũng được thực hiện bằng chất liệu quý nhưng nhà
cổ
Phùng Hưng không trạm trỗ, điêu khắc cầu kỳ mà được giữ thô
một cách cố ý.
Nhà cổ Phùng Hưng được cấp bằng di tích lịch sử - văn hoá quốc gia vào tháng 6 năm 1993
Hội quán Phúc Kiến (46 đường Trần Phú, Hội An)
Tương
truyền, tiền thân của Hội quán là một gian miếu nhỏ thờ pho
tượng Thiên Hậu Thánh Mẫu (bà Chúa phù hộ cho thương nhân
vượt sóng gió đại dương) vớt được tại bờ biển Hội An vào năm
1697. Qua nhiều lần trùng tu, với sự đóng góp chủ yếu của
Hoa Kiều bang Phúc Kiến, hội quán càng trở nên rực rỡ, khang
trang góp phần tô điểm diện mạo kiến trúc đô thị cổ Hội An.
Thông qua cách bài trí thờ phụng các hình nhân: 6 vị tiền
hiền (lục tánh), bà mụ, thần tài ... hội quán thể hiện sâu
sắc triết lý Á Đông về hạnh phúc con người.
Hàng năm, vào các ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng Âm lịch), Vía Lục Tánh (16 tháng 2 Âm lịch), vía Thiên Hậu (23 tháng 3 Âm lịch) ... tại hội quán Phúc Kiến diễn ra nhiều hoạt động lễ hội thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham gia.
Hội quán Phúc Kiến đã được cấp bằng di tích lịch sử - văn hoá quốc gia ngày 17 tháng 2 năm 1990.

Ngày 17 tháng 2 năm 1990, nhà cổ Tấn Ký đã được cấp bằng di tích lịch sử - văn hoá quốc gia.
Nhà cổ Phùng Hưng (04 đường Nguyễn Thị Minh Khai, Hội An)

Nhà cổ Phùng Hưng được cấp bằng di tích lịch sử - văn hoá quốc gia vào tháng 6 năm 1993
Hội quán Phúc Kiến (46 đường Trần Phú, Hội An)

Hàng năm, vào các ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng Âm lịch), Vía Lục Tánh (16 tháng 2 Âm lịch), vía Thiên Hậu (23 tháng 3 Âm lịch) ... tại hội quán Phúc Kiến diễn ra nhiều hoạt động lễ hội thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham gia.
Hội quán Phúc Kiến đã được cấp bằng di tích lịch sử - văn hoá quốc gia ngày 17 tháng 2 năm 1990.
Hội
quán Triều Châu
(157 đường Nguyễn Duy
Hiệu, Hội An)
Hội quán được Hoa Kiều bang Triều Châu xây dựng vào năm
1845 để thờ Phục Ba tướng quân Mã Viện - vị thần giỏi chế
ngự sóng gió giúp cho việc đi lại buôn bán trên biển được
thuận buồm xuôi gió, đắc lợi.
Hội quán có giá trị đặc biệt về kết cấu kiến trúc với bộ khung gỗ trạm gỗ chạm trổ tinh xảo cùng những hoạ tiết, hương án trang trí bằng gỗ và những tác phẩm đắp nổi bằng sành sứ tuyệt đẹp.
Hội quán Quảng Đông (17 đường Trần Phú, Hội An)
Hội quán được Hoa Kiều bang Quảng Đông xây dựng vào năm
1885. Thoạt đầu để thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu và Đức Khổng Tử,
sau năm 1911 chuyển sang thờ Quan Công và Tiền Hiền của
bang.
Với nghệ thuật sử dụng hài hào các chất liệu gỗ, đá trong kết cấu chịu lực và hoạ tiết trang trí đã đem lại cho hội quán vẻ đẹp đường bệ, riêng có. Hàng năm, vào ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng Âm lịch), vía Quan Công (24 tháng 6 Âm lịch) tại đây diễn ra lễ hội rất linh đình, thu hút nhiều người tham gia.
Hội quán Ngũ Bang (64 đường Trần Phú, Hội An)
Hội quán Ngũ Bang còn có tên là hội quán Dương Thương
hay Trung Hoa hội quán. Hội quán do các thương khách người Hoa gốc
Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng Đông, Hải Nam, Gia Ứng xây dựng
vào năm 1741. Đây là nơi thờ Thiên Hậu Ngũ Bang
và sinh hoạt đồng hương để giúp nhau làm ăn buôn bán. Hội
quán Ngũ Bang mang đậm
phong cách kiến trúc Trung Hoa.
Chùa Ông (24 đường Trần Phú, Hội An)
Chùa Ông được xây dựng năm 1653, đã
qua 6 lần trùng tu vào các năm: 1753, 1783, 1827, 1864,
1904, 1906. Chùa Ông có kiến trúc uy nghi, hoành tráng, tại
đây thờ tượng Quan Vân Trường (một biểu tượng về trung - tín
- tiết - nghĩa) nên còn có tên gọi là Quan
Công Miếu. Chùa
Ông đã từng là trung tâm tín ngưỡng của Quảng Nam xưa, đồng
thời cũng là nơi các thương nhân thường lưu đến để cam kết
trong việc vay nợ, buôn bán, làm ăn và xin xăm cầu may.
Quan âm Phật tự Minh Hương (số 7 đường Nguyễn Huệ, Hội An)
Đây là ngôi chùa thờ Phật duy nhất còn lại giữa khu phố cổ. Quan âm Phật Hương có kiến trúc và cảnh quan xinh đẹp đồng thời còn lưu giữ gần như nguyên vẹn các tác phẩm điêu khắc gỗ đặc sản do các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng thực hiện. Chùa thờ Phật Quan Thế Âm Bồ Tát và một số chư vị Phật, Bồ Tát khác, vì vậy trong những ngày lễ, ngày rằm thường có rất nhiều người đến khẩn cầu.
Nhà thờ tộc Trần (số 21 đường Lê Lợi, Hội An)
Do một vị quan họ Trần (một dòng họ lớn từ Trung Hoa di
cư đến Hội An vào những năm 1700) xây dựng năm 1802 theo
những nguyên tắc phong thuỷ truyền thống của người Trung Hoa
và người Việt. Tạo lạc trên một khu đất rộng khoảng 1500 m2,
có nhiều hạng mục: nhà thờ tự ông bà và trưng bày các di vật
liên quan đến dòng họ, nhà ở ... Đây là nơi tụ họp con cháu
vào dịp lễ bái, tri ân tổ tiên và giải quyết những vấn đề
trong dòng tộc.
Nhà thờ tộc Trần là một trong những điểm tham quan điểm tham quan được nhiều du khách quan tâm.
Đến đây bạn có thể chọn một khách sạn ở hội an để nghỉ ngơi. Một trong nhiều khách sạn ở hội an bạn có thể chọn Khách Sạn Thanh Vân 2 ở 467 Hai Bà Trưng, Hội An, Quảng Nam
Hội quán có giá trị đặc biệt về kết cấu kiến trúc với bộ khung gỗ trạm gỗ chạm trổ tinh xảo cùng những hoạ tiết, hương án trang trí bằng gỗ và những tác phẩm đắp nổi bằng sành sứ tuyệt đẹp.
Hội quán Quảng Đông (17 đường Trần Phú, Hội An)

Với nghệ thuật sử dụng hài hào các chất liệu gỗ, đá trong kết cấu chịu lực và hoạ tiết trang trí đã đem lại cho hội quán vẻ đẹp đường bệ, riêng có. Hàng năm, vào ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng Âm lịch), vía Quan Công (24 tháng 6 Âm lịch) tại đây diễn ra lễ hội rất linh đình, thu hút nhiều người tham gia.
Hội quán Ngũ Bang (64 đường Trần Phú, Hội An)

Chùa Ông (24 đường Trần Phú, Hội An)

Quan âm Phật tự Minh Hương (số 7 đường Nguyễn Huệ, Hội An)
Đây là ngôi chùa thờ Phật duy nhất còn lại giữa khu phố cổ. Quan âm Phật Hương có kiến trúc và cảnh quan xinh đẹp đồng thời còn lưu giữ gần như nguyên vẹn các tác phẩm điêu khắc gỗ đặc sản do các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng thực hiện. Chùa thờ Phật Quan Thế Âm Bồ Tát và một số chư vị Phật, Bồ Tát khác, vì vậy trong những ngày lễ, ngày rằm thường có rất nhiều người đến khẩn cầu.
Nhà thờ tộc Trần (số 21 đường Lê Lợi, Hội An)

Nhà thờ tộc Trần là một trong những điểm tham quan điểm tham quan được nhiều du khách quan tâm.
Một khách sạn thoải mái tại trung tâm phố cổ Hội An, chỉ mất vài phút đi bộ ra trung tâm, 15 phút đến biển Cửa Đại, và 35km đi sân bay Đà Nẵng và ga tàu. Khách sạn có thể sắp xếp các chuyến tham quan cho quý khách tới Thánh địa Mỹ Sơn, Ngũ Hành Sơn và nhiều điểm du lịch khác. Quý khách có thể thưởng thức ẩm thực Hội An ở những quán ăn gần khách sạn, nổi tiếng với hương vị độc đáo và nguyên liệu tươi. Mang phong cách thiết kế của Pháp với một loạt các phòng được trang bị tiện nghi hiện đại. Khách sạn có bể bơi, dịch vụ du lịch, và phòng họp. Thanh Van II Hotel chào đón tất cả mọi khách du lịch thăm phố cổ Hội An.
Món ngon bạn nên thưởng thức:
Cao Lầu
Nguồn gốc của món cao lầu đến nay vẫn là đề tài đàm luận của nhiều người. Có người cho rằng cao lầu có xuất xứ từ xứ sở hoa anh đào (Nhật Bản), có nét giống món mì ở vùng Icé (Ice udon). Có người lại cho rằng cao lầu có xuất xứ từ Trung Quốc, nhưng những người Hoa kiều ở Hội An không công nhận đây là món ăn truyền thống của họ. Dù có nguồn gốc từ đâu thì cao lầu vẫn là món ăn riêng có của Hội An và ngày càng được nhiều thực khách trong, ngoài nước biết đến. Sợi cao lầu được cán từ bột gạo ngâm với nước tro, hấp qua 3 lần lửa, nên cứng và có màu vàng tự nhiên. Nhân cao lầu chủ yếu là thịt xá xíu, trộn với ít tép mỡ làm bằng sợi mì chiên dòn ăn với sợi cao lầu, rau sống, xì dầu, tương ớt. Cách chế biến cao lầu mới nghe qua trông rất đơn giản nhưng ẩn chứa nhiều bí quyết nghề nghiệp khó mà khám phá. Có người bảo rằng, ngày xưa người ta phi ra tận đảo Cù Lao Chàm lấy củi đốt thành tro đem về ngâm với nước giếng Bá Lễ ở Hội An thì mới chế biến được sợi cao lầu ngon như ý.
Mỳ Quảng

Mỳ Quảng, từ lâu đã được biết đến như cái “hồn” nghệ thuật ẩm thực của vùng đất Quảng Nam. Bây giờ, ngoài Quảng Nam ra, nhiều nơi cũng có quán ăn mì Quảng. Mì Quảng theo chân những người Quảng Nam tha hương và cùng họ có mặt khắp nơi như người bạn đồng hành tri kỷ. Mì Quảng thường có mặt trong những bữa tiệc “vọng cố hương” của người Quảng Nam xa xứ. Cũng như phở, bún hay hủ tiếu, mì Quảng cũng được chế biến từ gạo nhưng có sắc thái và hương vị riêng đặc biệt. Mì được làm từ lá bánh tráng thái thành sợi, nhân mì thường được chế biến từ nhiều loại nguyên liệu khác nhau: tôm, gà, thịt heo, thịt bò, cá lóc, cua… và có cả mì chay dành cho người hành đạo. Nhưng là nhân gì đi nữa thì mì Quảng cũng không thể thiếu cái bánh tráng nướng, trái ớt xanh, lát chanh, vài hạt đậu phộng và đĩa rau sống đi kèm. Rau để ăn mì Quảng thường là rau muống chẻ nhỏ hoặc cây cải con trộn với búp chuối non thái mỏng, rau thơm, rau quế…Đến Quảng Nam, du khách dễ dàng bắt gặp nhiều quán ăn mì Quảng nằm dọc trên tuyến đường quốc lộ 1A luôn đông đúc khách sành ăn: quán mì gà Bình Nguyên (huyện Thăng Bình), quán mì gà Kỳ Lý (thị xã Tam Kỳ), quán mì tôm cua Cây Trâm (huyện Núi Thành), quán mì bò Cẩm Hà (thị xã Hội An)…
Bánh Lăn

Để làm được những cái bánh thơm ngon, đòi hỏi phải có 1 – 2 người thợ bánh phải chịu nhọc nhằn qua nhiều cung đoạn khác nhau. Trong một thời gian nhất định, bột nếp phải đem rang, gừng bỏ củ vào cối giã cho nát. Sau khi bột nếp rang xong và gừng đã giã nát, người thợ làm bánh bắt đầu trộn lần lượt gừng, đậu phụng, mè lên bột nếp và đổ nước đường đã thắng vào. Người thợ vừa dùng cây khuấy đều, vừa nhồi bánh để nước đường thấm vào bột. Nhồi đến khi nào bột dẻo. Người thợ tiếp tục khâu quan trọng: lăn bánh là khâu tạo nên những cái bánh nho nhỏ xinh xinh.
Đó là cái bánh mịn màng với màu trắng trong, với mùi thơm của gừng hoà quyện trong hương thơm nồng của bánh làm cho bạn vừa đưa lên ngửi thì lưởi đã hỏi thăm.
Xí Mà (Chí Mà Phù)

Bánh Ướt ( Bánh Đập )

Một đĩa bánh ướt mỏng tang, một vài kẹp bánh tráng nướng cũng giòn tan và một chén mắm nêm kèm chút tương ớt. Bạn đã có thể thưởng thức hương vị dân dã Hội an rồi đó !
Bánh ướt được tráng từ bột gạo. Chọn loại gạo ngon, sàng sảy sạch sẽ tạp chất, vo gạo sạch rồi ngâm từ 3 – 4 giờ sau đó đem xay bột mịn. Tỷ lệ gạo và nước thường được ước lượng do kinh nghiệm của người làm bánh để có bánh ngon dẻo không bị rách, nhão. Để tráng bánh ướt người ta dùng lò tráng – lò thường được đắp đất sét để giữ nhiệt. Quan trọng nhất là kỷ thuật căng vải trên miệng nồi. Vải không được căng lắm cũng như trũng lắm. Khi nước đã sôi già, múc một vá nước bột trải đều theo hình xoáy tròn trên mặt vải. Đậy nắp kín sau một phút thì bánh chín. Dùng một đủa tre được chút mỏng từ từ lật mí rồi vớt bánh ra. Người ta thường xoa dầu ăn giữa hai lớp bánh và dùng lề bằng lá chuối để kẹp bánh.Bánh ướt có thể phơi một nắng rồi đem nướng than. Khi ăn thường kẹp một bánh tráng nướng mỏng và một bánh ướt – có lẻ vì thế mà người ta còn gọi là Bánh Đập.
Bánh Bèo

Đậu Hủ

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét