Lễ hội Cổ Loa
Cổ
Loa là di tích lịch sử nổi tiếng nằm trên địa phận huyện Ðông Anh
cách trung tâm Hà Nội khoảng 17 km về phía Tây Bắc, là một vùng
thành trì lớn, một dấu tích vật chất về kiến trúc quân sự và thành
cổ cách đây hơn 2 thiên niên kỷ. Ðây là thủ đô thứ hai của Việt
Nam, sau Phong Châu (tỉnh Phú Thọ hiện nay - là thủ đô thời các vua
Hùng).
Thành Cổ Loa gắn liền với câu chuyện An Dương Vương và Nhà nước Âu Lạc cuối thời Hùng Vương.
Hàng chục nghìn người dân đổ về thành Cổ Loa dự hội.
Tuy phải làm chứng cho một câu chuyện buồn về sự mất cảnh giác để
nước rơi vào tay giặc, song trải qua thời gian, thành Cổ Loa vẫn
luôn mãi là niềm tự hào của người Việt Nam về lịch sử chống ngoại
xâm. Hàng năm cứ đến ngày mồng 6 tháng Giêng âm lịch, nhân dân Cổ
Loa và khách du lịch trên khắp mọi miền Tổ quốc lại về dâng hương
tưởng niệm vua An Dương Vương và tổ chức trọng thể lễ hội đền Cổ
Loa với các cuộc thi và trò chơi dân gian.
Lễ rước kiệu vào đền thờ An Dương Vương
Làng Cổ Loa gồm 12 xóm nhưng hội Cổ Loa là của chung một cụm tám
làng (ngày trước gọi là Bát Xã) gồm: Ðài Bi, Sàn Dã, Cầu Cả, Mạch
Tràng, Văn Thượng, Thư Cưu, Cổ Loa, Xép. Cả 8 làng này đều thờ Thục
Phán nên đều tham gia tổ chức hội. Hội bắt đầu từ sáng sớm ngày 6
tháng Giêng âm lịch.
Nghi lễ rước thần của tám làng ở Cổ Loa
Ngay từ sáng sớm hôm đó, các chức sắc của 8 làng đến nhà ông tiên
chỉ của làng Văn Thượng, là làng có đặc quyền soạn thảo văn tế, để
rước văn tế. Tại đây có một cái giá văn dán sẵn bài tế. Tiên chỉ và
các chức sắc áo mũ nghiêm chỉnh đến trước giá văn làm lễ rồi đám
rước văn gồm có phường bát âm đi đầu, đến các chức sắc và 8 ông
tiên chỉ 8 làng cùng các dân đinh khiêng giá văn tế, kiệu long
đình, cờ lọng đi ra đền An Dương Vương tức đền Thượng. Sân đền được
bài trí cờ quạt rực rỡ cho cuộc tế thần.
Ngoài cửa đền, có ngựa hồng, ngựa bạch (bằng gỗ) đứng chầu. Hai bên
đường đi vào đền có các giá gỗ cắm cờ quạt và lộ bộ bát bửu (các
đồ thờ cúng làm theo kiểu dáng tám loại vũ khí). Kiệu của tám xã
xếp theo thứ tự qui định. Trước đền đặt một hương án lớn, trên để
hộp kính đựng đôi hia vàng và các đồ thờ. Trước hương án lớn là một
hương án nhỏ hơn trên bày những khí giới của vua Thục như cung,
kiếm, tên, nỏ. Tiếp đó trải một hàng chiếu cạp điều để làm chỗ tế
thần.
Khi đám rước tới, long đình được đặt trước hai hương án. Cuộc
tế thần được tiến hành trong nền nhạc của phường bát âm. Tiên chỉ
làng Văn Thượng là chủ tế. Sau cuộc tế, đến lượt dân làng vào làm
lễ. Cuộc lễ kéo dài đến gần trưa mới xong.
Lần lượt các xã khênh 8 chiếc kiệu vào sân Rồng tế lễ.
Sau
đó chuyển sang cuộc rước thần. Ði đầu cũng là cờ quạt rồi đến long
đình cùng các lộ bộ bát bửu. Tiếp theo là phường bát âm và các
quan viên đội mũ tế áo thụng, đai hia, tay bưng các vũ khí của nhà
vua. Liền sau đó là chức sắc và trai đinh xóm Chùa thuộc làng Cổ
Loa khiêng long đình trên có bài vị của nhà vua. Rồi đến chức sắc
và dân của các làng khác, mỗi làng rước kiệu của mình, với cờ quạt,
phường bát âm riêng. Toàn bộ đám rước rất dài, lại đi rất chậm,
đàn sáo tưng bừng.
Hình ảnh Nỏ thần Kim Quy xuất hiện.
Lễ dâng hương tưởng niệm Vua An Dương Vương.
Ðường đi bắt đầu từ đền Thượng vòng quanh giếng Ngọc rồi theo
đường chân thành Nội tới đình Ngự Triều. Ði sau mỗi kiệu có 4 trai đinh
mỗi người cầm một cây cờ đại, vừa đi vừa múa. Tới ngã tư ở cửa điếm
làng Cổ Loa kiệu làng nào quay về làng ấy.
Riêng
kiệu của làng Cổ Loa thì quay vào đình Ngự Triều, được đặt trước
sân đình và dân Cổ Loa lại làm lễ thần lần nữa. Ðến lúc này là tối
mịt, hết ngày lễ hội chính nhưng đó chỉ mới là phần lễ.
Múa rối nước tại trụ sở ban tổ chức lễ hội Cổ Loa
Thưởng thức tuồng cổ Mỵ Châu, Trọng Thủy
Hát quan họ tại khu vực Xóm Chợ
Những làn điệu dân ca quan họ trên hồ Giếng Ngọc.
Còn phần hội thì kéo dài tới rằm tháng giêng bằng nhiều trò vui. Tối ở đình làng có đốt pháo hoa, hát ca trù, hát tuồng. Ban ngày, các cụ ông chơi bài, đánh cờ. Các cụ bà đi lễ đình lễ chùa. Thanh thiếu niên nam nữ có trò chơi: đánh đu, đấu vật, kéo co, leo dây, bắn cung nỏ, cờ người, thổi cơm thi, chọi gà, đánh đáo mẹt...
Trò chơi cờ người tổ chức tại sân Trường THCS Cổ Loa
Trên sân vận động Cổ Loa, du khách có thể xem chọi gà
Trò chơi bắn nỏ.
Các trò chơi dân gian đấu vật...
đánh đu.
So tài quanh "Mắt Rồng".
Trong những ngày hội Cổ Loa, nhân dân quanh vùng cùng khách thập
phương đến xem thật đông, coi đây là dịp vui xuân có ý nghĩa.
Khách Sạn Loa Thành Khối 1B Thị trấn Đông Anh, H. Đông Anh là một khách sạn ở hà nội phù hợp với bạn.
Sau đó thăm kinh Đô Cổ Loa
Qua cầu Chương Dương, theo quốc lộ 1A cũ đến cây số 10 là cầu Đuống. Qua cầu là thị trấn Yên Viên, rẽ trái vào quốc lộ 3, đi 5km đến ngã ba rẽ phải, đi tiếp 2km nữa là vào khu di tích Cổ Loa.
Dù chỉ cách trung tâm thủ đô không xa, nhưng khi đặt chân lên mảnh đất cố đô trong tôi vẫn có cảm giác thật sự khác lạ. Không gian thoáng đãng, không khí trong lành. Cổ Loa trước mắt như hiện thân cho hình ảnh của một làng quê Bắc bộ, với những bến nước sân đình, cây đa cổ thụ bởi hơi thở của cuộc sống hiện đại với những nét văn hóa “lai căng” dường như chưa xâm lấn vào cuộc sống nơi đây.
Cổ Loa là kinh đô của nhà nước phong kiến Âu Lạc, dưới thời An Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên và của nhà nước Vạn Xuân dưới thời Ngô Quyền thế kỷ 10 sau Công nguyên. Đây là thủ đô thứ hai của Việt Nam sau Phong Châu (tỉnh Phú Thọ hiện nay), là thủ đô thời các vua Hùng.
Theo các tài liệu khảo cổ học, xa xưa nơi đây là rừng rậm, do biến đổi của thiên nhiên nên tất cả đã chìm vào lòng đất, hiện chỉ còn dấu tích những dải than bùn lớn, những cây cổ thụ… kéo dài qua nhiều địa phương từ Đài Bi qua Cầu Cả, Đại Đà, Hội Phụ đến Lỗi Khê.
Khác với các di tích lịch sử khác, Cổ Loa là một quần thể di tích có diện tích trải rộng trên một địa bản rộng lớn. Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm chín vòng xoáy trôn ốc, nhưng căn cứ trên dấu tích hiện còn, các nhà khoa học thấy thành có ba vòng, trong đó vòng thành nội rất có thể được làm về sau, dưới thời Ngô Quyền.
Chu vi vòng ngoài thành là 8km, vòng giữa 6,5km, vòng trong 1,6km, diện tích trung tâm lên tới 2km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao từ 4 m-5m, có chỗ cao 8 m-12 m. Chân lũy rộng 20m-30m, mặt lũy rộng 6m-12m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu m3.
Từ vòng trong – trung tâm của khu di tích Cổ Loa – tôi men theo các con đường làng để “xoáy” trở ra đến vòng ngoài. Trải qua hàng ngàn năm với những thắng trầm của lịch sử, với những sự thay đổi của thiên nhiên tạo hóa, những bờ tường kiên cố ngày xưa, nay chỉ còn những gò đất cao trung bình khoảng 2m, tuy nhiên theo lời các cụ bô lão trong làng thì muốn đi được hết được cả ba vòng tường thành phải mất gần nửa ngày trời.
Cụm di tích Cổ Loa hiện nay thuộc vòng trong, bao gồm chủ yếu các đình, đền thờ, tiêu biểu như đền thờ Thục Phán An Dương Vương (đền Thượng), giếng Ngọc, am Bà Chúa và dinh Ngự triều di quy.
Qua cổng làng, cũng là cổng thành trong, là tới đình làng Cổ Loa. Theo truyền thuyết thì đó là nền cũ của điện ngự triều, nơi bá quan triều hội ngày xưa nên trong đình còn tấm hoành phi “Ngự triều di quy”.
Bên trong “Ngự triều di quy” còn có rất nhiều di tích khảo cổ niên đại hàng nghìn năm, đặc biệt là những mũi tên bằng đồng từ thời An Dương Vương.
Cạnh đình là am Bà Chúa – miếu thờ công chúa Mỵ Châu, nằm nép dưới gốc đa già cổ thụ. Miếu am bé bỏng như cuộc đời ngắn ngủi của nàng công chúa đáng thương với “trái tim lầm chỗ để lên đầu”. Trong am có một tảng đá hình người cụt đầu, ai cũng bảo đó là tượng Mỵ Châu.
Tượng bà chúa Mỵ Châu là một hòn đá tự nhiên có hình dáng người cụt đầu. Huyền thoại kể rằng: sau khi Mỵ Châu hóa thành hòn đá to trôi dạt về bãi Đường Cấm, ở phía đông thành Cổ Loa, dân trong thành đem võng ra cáng về đến gốc đa thì đứt võng, hòn đá rơi xuống, bèn lập am thờ ngay tại chỗ.
Qua am Mỵ Châu tới đền Thượng, tức đền An Dương Vương, tương truyền dựng trên nền nội cung ngày trước. Ðền này mới được làm lại hồi đầu thế kỷ 20, có đôi rồng đá ở bậc tam cấp cửa đền là di vật đời Trần hoặc Lê Sơ. Trong đền có tượng An Dương Vương bằng đồng mới đúc cùng dịp làm lại đền. Trước đền là giếng Ngọc, tương truyền là nơi Trọng Thủy tự tử vì hối hận. Nước giếng này mà đem rửa ngọc trai thì ngọc sáng bội phần!
Trong quần thể khu di tích lịch sử Cổ Loa, đền Thượng (đền Thục Phán An Dương Vương) là điểm tham quan đáng chú ý nhất. Đền được xây dựng năm 1687 đời vua Lê Hi Tông, đứng trên một quả đồi xưa có cung thất của vua.
Trước cửa đền có đôi rồng đá uốn khúc, tay vuốt râu, được chạm trổ tinh xảo, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc thời Lê.
Qua cửa tam quan, bước vào trong đền những hàng cây xanh hai bên đền là một không gian thoáng đãng, trong lành khiến ai cũng cảm thấy tâm hồn sảng khoái, thanh thản.
Bước vào bên trong ngôi đền là một không gian khá rộng với lần lượt những ban thờ của các vị bá quan văn võ, tứ trụ triều đình, thần Kim Quy và bàn thờ của Thục Phán An Dương Vương.
Đá kè chân thành, gốm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất là địa hình hiểm trở ngoằn ngoèo. Cổ Loa ngày nay không chỉ đã trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm,mà nó còn là một điểm đến lý tưởng cho các du khách thập phương muốn khám phá những giá trị văn hóa,những hình ảnh quen thuộc của một làng quê Bắc Bộ thanh bình.
Hằng năm vào ngày 6 tháng giêng âm lịch, cư dân Cổ Loa tổ chức một lễ hội trang trọng để tưởng nhớ những người đã có công xây thành, nhất là để ghi ơn An Dương Vương, người khai sinh ra nhà nước phong kiến Âu Lạc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét