Chùa Đồng Yên Tử
Yên
Tử cách thị xã Uông Bí (Quảng Ninh) 14 km về phía Tây Bắc. Theo Thiền
sử, Yên Tử là nơi ra đời và phát triển thiền phái Trúc Lâm với ba vị
tổ: Trần Nhân Tông (1258-1308) pháp danh Ðiều Ngự Giác Hoàng, là ông
tổ thứ nhất. Pháp Loa tôn giả (tên thật Ðồng Kiên Cương, 1284 -1330)
là ông tổ thứ hai. Lý Ðạo Tái (1254 -1334 ) pháp danh Huyền Quang tôn
giả, là ông tổ thứ ba.
Trước
hết, khi tới chân núi theo một lối mòn, rẽ tay phải, đang còn trong
cảnh rậm rạp ta đã nghe thấy tiếng nước chảy róc rách. Đó là suối Giải Oan trong
veo chảy ngoằn ngoèo trên nền đá cuội và sỏi trắng. Nối hai bên bờ suối
là cây cầu đá xanh, dài 10m, có kiến trúc không cầu kỳ nhưng lại toát
lên vẻ cổ kính, vững chãi. Chính ở dòng suối này, lòng ta trào dâng niềm
thương cảm, câu chuyện bi thương về 100 cung nữ đã quyên sinh tại đây
vì không được theo vua.
Tục truyền rằng, xưa kia vua Trần Nhân Tông nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông rồi
tìm đến cõi Phật . Vua Nhân Tông có rất nhiều cung tần và mỹ nữ. Họ đã
khuyên ông trở về cung gấm nhưng không được nên đã gieo mình xuống suối
tự vẫn. Để giải oan cho linh hồn của họ, vua Trần Nhân Tông đã lập chùa
hợp cúng. Ngôi chùa và con suối từ đó, mang tên là “Giải Oan”. Dưới ân đức cao dày và lòng từ bi, bồ tát của vua Trần Nhân Tông,
những cung nữ còn sống sót đã được làm nhà, cấp ruộng cấy cày dưới chân
núi, lấy chồng sinh con, lập thành làng Nương, nàng Mụ, tức xã Thượng
Yên Công (Uông Bí) ngày nay. Theo chuyện xưa, chùa Giải Oan
không chỉ là nơi lập đàn tràng giải oan cho các cung nữ mà còn là nơi
Đệ Tam Tổ Huyền Quang giải nỗi oan khuất của mình với nàng Điểm Bích,
trước khi về kinh đô làm lễ sám hối cho triều đình. (Thời vua Trần Minh
Tông).
Con đường lên tháp Tổ xếp bậc đá dẫn thẳng đến trước cửa khu tháp dưới bóng một cây thông già
gần ngàn tuổi, cây thẳng đứng, thân to tròn ba người ôm không xuể, cành
đan vào nhau tạo nên cái tán hình tròn xương xẩu đứng cách xa chân núi
hàng chục kilômét cũng nhìn thấy
Chính giữa khu tháp là lăng Quy Đức- nơi đặt mộ vua Trần Nhân Tông. Lăng Quy Đức được xây bằng gạch to, dày, nung, chín già; chát bùn đất, vôi trộn mật đường, bột giấy, gió và cát; lợp ngó mũi hài kép. Đây là một di tích thời Trần còn lại hầu như nguyên vẹn. Ở giữa lăng nổi lên một ngọn tháp lớn, là bông hoa thắm nhất trong rừng tháp Yên Tử.
Tháp 6 tầng, cao 10m, bốn mặt tháp có tường vây, mỗi tầng là một khối
đá xanh vuông vức. Từ dáng thu tầng độc đáo của ngọn tháp, từ các hoa
văn sóng nước, hình ngọn núi được chạm ở bệ tháp, hoa văn dây lá cuốn
trong cánh sen, cách ghép đá bằng những lỗ cá đổ chì, đặc biệt là pho
tượng Đệ Nhất Tổ Trần Nhân Tông, chất liệu bằng đá trắng, dáng ngồi
khoan thai, áo cà sa khoác chéo, lộ trần cánh tay phải với các hoa văn
dây lá trên các nẹp áo đều là những tư liệu quý cho việc nghiên cứu kiến
trúc và nghệ thuật thời Trần. Quây quần quanh tháp Tổ là 97 ngọn tháp
khác nhau của các nhà tu hành thời Trần và thời Lê, đã trọn đời hóa thân
vào cõi Phật.
Con
đường từ khu tháp Tổ lên chùa Hoa Yên lát loại gạch vuông lớn in hình
hoa cúc phổ biến thời Trần (ngày nay còn được 84 viên). Đáng lưu ý là
gạch hoa cúc thời Trần chỉ có ở các di tích của triều đình hay hoàng tộc
nhà Trần, điều đó mách bảo vị trí trang trọng của khu di tích lịch sử
và danh thắng Yên Tử. Gạch hoa cúc làm bằng đất nung để nát nền hoặc ốp
tường, không dùng để xây, hình vuông, có cấu trúc hoa văn trên bề mặt,
phản ánh ý nghĩa triết lý sâu sắc.
Chùa Hoa Yên vốn có tên là “Vân Yên”( mây khói), đặt với hàm ý: chùa
trên tận núi cao, quanh năm mây sương phủ, mây lững lờ trôi, trắng nhẹ
như khói bay trên núi. Từ khi vua Lê Thánh Tông lên vãn cảnh, thấy sắc
hoa tươi đẹp nên đổi tên chùa là Hoa Yên .
Nhìn
theo thế núi, chùa Hoa Yên tọa lạc nơi đầu rồng, núi nhô ra như trán,
mũi, hàm rồng. Đôi mắt rồng ở ngôi tháp Tổ, hai dãy núi Tây Đông vươn về
Nam ôm lấy con đường hành hương dưới chân núi Giải Oan như đôi cánh tay
rồng. Xét về mặt tâm linh, chùa Hoa Yên là nơi giao hội của trục linh (
trục tung) và trục tú (trục hoành), hai bên tả hữu vươn ra (tả thanh
long, hữu bạch hổ) theo thuật phong thủy, đây là vị trí đất quý hiếm.
Đến
chùa Hoa Yên vào buổi chiều tà, du khách đã qua nửa chặng đường leo núi
Yên Tử, được mời nghỉ chân qua đêm tại chùa để lấy lại sức sáng hôm sau
tiếp tục cuộc hành trình. Đêm ở chùa thật kỳ ảo, trong không gian mênh
mông, văng vẳng tiếng suối róc rách, tiếng trúc rì rào, tiếng tắc kè
thảng thốt, đâu đây thoang thoảng mùi hương phong lan, mộc miên, trứng
gà, hoa dẻ.. Bên phải chùa Hoa Yên là thác Ngự Dội (nơi
vua tắm), một đoạn của thác Vàng chảy ngầm trong núi đến đây vọt ra
thành một đường cong lắp lánh ánh bạc. Sách xưa kể lại rằng: đây là nơi
mà Phật Hoàng Trần Nhân Tông thường tắm rửa trước khi nhập định, tham
thiền tại am Thiền Định.
Nguồn
nước của thác Ngự Dội như là trí tuệ của Phật Tổ gột rửa hết tam độc
(tham, sân, si), lục tặc ( nhân tặc, nhĩ tặc, thiệt tặc, thân tặc, tỵ
tặc, ý tặc) để tu thành chính quả. Thác Ngự Dội còn có tên khác là Long Khê (khe
Rồng), nước từ trên núi cao đổ xuống ầm ầm, toé lên trắng xóa như những
hạt lưu ly, tạo ra một luồng gió mạnh mang theo bụi nước mờ mờ như
sương, du khách thấy mình xiết bao nhẹ nhõm, thoải mái với cái cảm giác
mơn man, tươi mát này.
Kề sát thác Ngự Dội là am Thiền Định-
nơi Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông ngồi nhập định, tham thiền. Am
Thiền Định ở xa tuyến hành hương tĩnh lặng phù hợp với việc thiền định.
Cách đó khoảng 300m, đến thác Vàng, nước chảy từ chùa Đồng (1068m), như dải lụa chảy xuống thành suối vàng, lúc ồn ào, lúc trầm tư.
Người
lên Yên Tử càng lên cao càng ngỡ mình đi lạc vào chốn mộng mơ, huyền
ảo. Cảnh núi non sương khói như đưa người vào cõi tiên xa cách chốn trần
gian. Dòng người càng lên cao, con đường càng gập ghềnh, những tảng đá
chai mòn như lưu lại quá khứ hành hương đến nghìn năm của chốn thiện
tâm.
Những
rừng trúc xanh tươi rì rào trong gió ngàn như kể chuyện Tam Tổ đã lập
lên Thiền Phái Trúc Lâm hay hát lên những lời ca cảm thán đất nước mình.
Như có một sức mạnh thần bí nâng bổng con người vượt núi tới đây. Đó là
vẻ đẹp linh thiêng của trời đất và lòng người hòa hợp.
Chùa có ba pho tượng Tam Tổ Trúc Lâm bằng đồng khá lớn, cùng ngồi xếp bằng trên bệ sen đồng được sơn son thiếp vàng. Chùa Bảo Sái vừa là tên chùa, vừa là tên đại đệ tử của Đức Phật Trúc Lâm. “Bảo Sái” tức là “những giọt nước chảy thành tua”, nghĩa đạo là sự thấm nhuần mưa của Đạo Phật nhiệm màu với chúng sinh. Chùa Bảo Sái là một biểu tượng của sự thấm nhuần rễ đạo của phật tử.
Cạnh am là giếng Thiêng nước trong vắt và cây giội cổ thụ, bị móng vuốt hổ cào, trải qua bao năm tháng vẫn còn in vết như một huyền thoại. Dưới gốc cây là ông Hổ Đá quỳ hai chân trước nhìn vào am chăm chú như đang nghe kinh. Chuyện xưa kể rằng: Đã lâu lắm rồi, có một con hổ ở đâu về chùa, cứ mỗi lần sư chùa tụng kinh, gõ mõ là hổ lại đến bên gốc giổi nghe kinh kệ. Ngày tháng qua đi, hổ và nhà sư luôn sống gần nhau. Bỗng một ngày kia, sư chùa lâm bệnh rồi viên tịch. Vắng bóng nhà sư, không còn tiếng tụng kinh, gõ mõ, hổ đau đớn, thét gầm, ôm chặt thân cây giổi cào xé. Sau ngày đó, hổ biệt tăm. Để ghi lại sự tích này, đời sau đã tạc tượng hổ bên giếng thiêng và khắc vào vách đá 4 chữ “Hổ bao niết linh”, tức “dấu vết ôm cây của hổ thiêng”. Du khách đến chùa thường ra thắp hương cho ông hổ, chỉ cho nhau xem dấu vết móng vuốt hổ còn in đậm nơi này.
Cách chùa Bảo Sái vài trăm mét là chùa Vân Tiêu (chùa trên mây), tọa lạc trên gò núi cao, từ dưới nhìn lên có cảm giác như công trình kiến trúc này được nổi hẳn lên giữa trời mây bát ngát.
Trong hàng trăm ngôi tháp ở Yên Tử thì tháp “Vọng Tiên Cung” có kiểu kiến trúc riêng, độc đáo, phản ánh kiến trúc lăng tháp điển hình của thời Nguyễn. Bằng sự công đức của các phật tử thập phương, chùa Vân Tiêu được xây dựng lại năm 2001, có quy mô rộng lớn hơn, có cấu trúc hình chữ “đinh”, gồm bái đường và hậu cung, đón khách thập phương về thăm quan lễ Phật. Bên phải chùa Vân Tiêu là suối Hàm Long, khúc thượng lưu của suối Vàng, dòng nước trong veo, lưu lượng lớn, đều đặn, bốn mùa không thay đổi, tục truyền rằng du khách nào dừng chân tắm suối này thì da sẽ mịn hơn, người sẽ khỏe thêm.
Từ chùa Giải Oan đến chùa Bảo Sái là đường rừng, trúc, mai, giang bạt ngàn, mọc ken dày, thẳng tắp, mái lá rậm rạp, mượt mà phủ quanh các mái chùa, đỉnh tháp và rủ xuống hai bên lối đi. Ở đây ngoài nhiều loại trúc thường thấy có loại trúc hóa rồng thân vàng đậm, đốt chỗ thưa chỗ mau, gốc trồi lên mặt đất uốn cong với bộ rễ dày và xoăn tựa đầu rồng. Về mùa xuân, dưới những cơn mưa bụi, các loại măng bật lên từ lớp đất ẩm ướt phủ đầy lá mục: măng giang mập mạp, măng trúc vàng ánh, măng mai mảnh dẻ, tất cả đều mọc thẳng, nhọn hoắt làm cho rừng Yên Tử trẻ lại, đầy sức sống sau mùa khô hanh lạnh lẽo.
Rừng trúc là sản phẩm vô tận của Yên Tử, tượng trưng cho sinh lực dẻo dai và vẻ đẹp thanh bạch của thiên nhiên, có lẽ vì vậy Trần Nhân Tông đã lấy tên Trúc Lâm đặt tên cho phái thiền do ông sáng lập. Làm bạn với trúc, mai, giang là các loài chim. Chiều chiều khi hoàng hôn xuống, vô vàn cu xanh, cu đất, chào mào, cà cưỡng,cò lửa, chích chòe... bay về ngủ, đậu rợp rừng trúc, kêu chao chác, inh ỏi.
Nằm ở độ cao 900m, cách chùa Vân Tiêu 569m, trên một vùng đất phẳng và rộng, một nhà sư mặc áo thâm hai tay chắp trước ngực đứng lặng lẽ nhìn ra lối đi như đang cầu nguyện. Đó là một tảng đá cao 3,5m tương truyền là An Kỳ Sinh tu hành đắc đạo và hóa thành Phật đã nhập vào mảng đá này.
Có rất nhiều khách sạn ở hạ long cho bạn lựa chọn hoặc bạn có thể chọn Khách Sạn Thương Mại Uông Bí ở Số 496 - Quang Trung - TP Uông Bí - Quảng Ninh
Khách sạn Thương Mại – Thuong mai Hotel; Trực thuộc Công ty CP Thương mại Dịch vụ Uông Bí – Quảng Ninh. Tọa lạc tại Trung tâm Thành phố Uông Bí (Số 496 - Đường Quang Trung - Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh); Sau khi được cải tạo, nâng cấp, mở rộng; Đạt tiêu chuẩn 3 sao, được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, hiện đại. Có thể nói vị trí của Khách sạn Thương Mại thực sự thuận tiện cho Quý khách đến Thăm quan du lịch, thực hiện Công vụ và Nghỉ dưỡng tại Thành phố Uông Bí – Quảng Ninh.
Vị trí: Khu du lịch nằm trên đường 18A nối Hạ Long-Hà Nội, cách khu di tích danh thắng Yên Tử khoảng 5km.
Đặc điểm: Từ thị xã Uông Bí đi khoảng 10km có biển chỉ dẫn rẽ phải theo một con đường trải nhựa, bạn sẽ tới khu du lịch Yên Trung.
Từ cổng đi vào khu du lịch khoảng 500m, dọc theo hai bên đường là những hàng thông vi vút, du khách sẽ tới một hồ nước đẹp và rộng, xung quanh là những đồi thông.
Giữa hồ có những đảo nhỏ, cây cối xanh tươi. Du khách có thể bơi thuyền dạo chơi trên hồ, ghé thăm các đảo nhỏ hoặc câu cá thư giãn. Tại khu du lịch này đã có “bản” dân tộc Mường, bản này nằm trên một quả đồi cao gồm ba ngôi nhà sàn được trang trí theo phong cách Mường.
Tại đây du khách có dịp tìm hiểu đời sống cộng đồng người Mường qua các vật dụng trưng bày: bếp, nồi nấu rượu, cối giã gạo, xay lúa, dụng cụ săn bắt hoặc giường, chăn, gối…
Trong tương lai khu du lịch này có thêm nhiều “bản” các dân tộc Việt Nam như Tày, Nùng, Thái… và nhiều loại hình dịch vụ khác sẽ đi vào hoạt động.
Xưa
kia, đường lên núi Yên Tử, lên đỉnh Phù Vân huyền thoại, chỉ có một
cách duy nhất là theo đường đi bộ, len lỏi theo lối mòn vượt qua bạt
ngàn cây cỏ, dưới tán rừng trúc, rừng thông.
Còn bây giờ, du khách có thêm một sự lựa chọn: theo đường cáp treo hiện
đại vượt quãng đường trên 1km để có thể ngắm cảnh núi rừng Yên Tử từ
trên cao, sau đó lại tiếp tục đi bộ đến thăm các điểm khác trong khu vực
thắng cảnh.
Tuy
thế, rất nhiều người vẫn chọn con đường du lịch truyền thống để thăm
toàn tuyến du lịch vì họ có thể chậm rãi thăm thú tất cả những gì mà
thiên nhiên đất trời tạo lập nơi đây. Đó là con đường dài trên 6km đã
được gia cố bởi hàng nghìn bậc đá xếp, rất chắc chắn và rất thuận tiện
cho dù độ dốc khá lớn.
Vườn tháp Huệ Quang - Yên Tử
Ngay sau chùa Giải Oan, đi lên chừng 400m, rẽ trái khoảng 50m, đến am Lò Rèn. Tương
truyền từ thời Phật hoàng Trần Nhân Tông về Yên Tử, ngài dựng am để rèn
dụng cụ lao động cho các chùa và nhân dân quanh vùng. Qua am Lò Rèn, là
khu tháp Tổ đồ sộ tức Huệ Quang Kim tháp, ở độ cao 700m, lưu giữ xá lợi của đức Tổ thứ nhất Trần Nhân Tông sau khi viên tịch. Ngài tịch tại am Ngọa Vân, vị tổ thứ hai là sư Pháp Loa đem xác nhà vua hỏa thiêu và chôn nơi đây.Chính giữa khu tháp là lăng Quy Đức- nơi đặt mộ vua Trần Nhân Tông. Lăng Quy Đức được xây bằng gạch to, dày, nung, chín già; chát bùn đất, vôi trộn mật đường, bột giấy, gió và cát; lợp ngó mũi hài kép. Đây là một di tích thời Trần còn lại hầu như nguyên vẹn. Ở giữa lăng nổi lên một ngọn tháp lớn, là bông hoa thắm nhất trong rừng tháp Yên Tử.
Hình
vuông lớn- biểu trưng cho đất( chứa đựng âm khí); bốn góc của hình
vuông có bốn bông hoa cúc, biểu tượng của tứ tượng ( khí, thủy, hỏa,
thổ); hình tròn lớn trong lòng viên gạch tượng trưng cho trời( chứa đựng
dương khí); có 8 bông hoa cúc thể hiện bát quái. Hình tròn nhỏ ở giữa
có hai bông hoa cúc nhỏ, thể hiện sự kết hợp của âm dương; xung quanh
viên gạch theo hình vuông là các tinh tú. Qua hoa văn họa tiết trên gạch
hoa cúc thời Trần.
Qua 136 bậc đá, lên chùa Chùa Hoa Yên,nằm ở độ cao 535m so với mực nước biển.
Dọc hai bên đường, cúc vạn thọ sum suê, hoa chen hoa vàng rực sườn núi,
cây đại 700 tuổi vỏ sù sì, cành cong veo đứng chênh vênh bên tường đá
nổi bật lên chùm hoa trắng dịu, chân tường đá là hàng dong lá tía, hoa
đỏ rực như những ngọn lửa nhỏ khiến cho cảnh vật trước cửa chùa thêm ấm
áp.
Chùa Hoa Yên và
các chùa xung quanh tạo nên quần thể kiến trúc chính của khu Yên Tử.
Chính vì chùa có quy mô lớn nhất và đẹp nhất cho nên còn goi là chùa Cả.
Trên 700 năm trước, chùa chỉ là một thảo am để Trần Nhân Tông giảng
đạo. Chùa được xây dựng khang trang bắt đầu từ thời Đệ Nhị Tổ Pháp Loa.
Sách
xưa ghi lại: Chùa Hoa Yên ngoài tiền đường, thượng điện để thờ Phật, tả
hữu còn có Viện Phù Đồ, có lầu trống, lầu chuông, nhà dưỡng tăng, nhà
khách nghỉ tạo nên một quần thể kiến trúc to lớn. Chùa Hoa Yên xưa quả
là một kỳ quan.
Cách chùa Hoa Yên khoảng 200m, là chùa Một Mái
hay còn gọi là chùa Bồ Đà, am Ly Trần, chùa Bán Mái, Thanh Long động
(động Rồng xanh). Chùa chênh vênh trong vách núi, nửa nhô ra bên ngoài,
nửa bám vào vách đá. Xưa chưa có chùa, nơi đây là am Ly Trần. Cảnh am
tĩnh lặng, thanh thoát, cách xa trần tục.
Điều
Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông và các môn sinh, đệ tử từ Hoa Yên thường
sang đây đọc sách, soạn kinh. Sau khi Ngài hiển Phật, người đời sau dựng
chùa tại đây. Chùa hình chữ “nhất”, gồm 4 gian, chiều ngang hẹp, tượng
và đồ thờ đều bằng đá trắng. Chùa Một Mái xưa là nơi lưu trữ các văn từ,
thư tịch.
Trong
vách hang có mạch nước ngầm nhỏ dẫn từng giọt trên một núm đá suốt bốn
mùa như dòng sữa mẹ không bao giờ cạn. Sư trụ trì lấy nước tinh khiết
này để tắm quả và lễ Phật. Du khách tới đây, ai cũng muốn uống một ly để
lấy phúc. Dân gian tin rằng, lấy nước ở đây và nước giếng ở chùa Đồng
về thắp hương gia tiên rất linh thiêng. Vì lẽ đó, mà rất nhiều phật tử
đến chùa thắp hương xin nước về để cúng lễ quanh năm tại gia.
Rời chùa Một Mái, men theo con đường vắt qua sườn núi sẽ đến am Ngọa Vân (am trong mây), trước mặt là thác Tử từ
trên lèn đá cao 10m đổ xuống, sôi réo trong các khe đá rồi tràn qua mặt
đường, lao xuống vực. Am Ngọa Vân tựa vào sườn núi, dưới tán hai cây
tùng lớn, hơi nước từ biển Đông theo gió bay vào Yên Tử gặp khí lạnh của
núi biến thành màn mây mỏng bàng bạc như khói, lùa vào am vương vấn
trên tán tùng, bồng bềnh trong rừng trúc, cảnh núi rừng hòa tan trong
làn mây mỏng nhẹ rồi lại từ từ hiện ra từng mảng đậm nhạt, chỗ xanh, chỗ
trắng như một bức tranh thủy mặc kỳ diệu.
Trước cửa am Ngọa Vân phía trước sườn núi có am Thung (am giã thuốc) và am Dược (am
chế thuốc). Theo truyền thuyết, am Dược là nơi An Kỳ Sinh luyện thuốc,
đến thời vua Trần Nhân Tông về Yên Tử tu hành, ngài đã cho xây dựng am
dược thành một xưởng bào chế thuốc. Các loại thảo dược quý của Yên Sơn
và các vùng lân cận được chăm sóc thu hái, mang về điều chế thành thuốc
“Hồng Ngọc Sương”.
Những
viên thuốc quý này dùng để chữa bệnh cho tăng sỹ, nhân dân, đặc biệt là
những người nghèo khó, không có tiền mua thuốc. Đứng ở đây, khách hành
hương có thể hướng tầm mắt ra biển, thấy thấp thoáng Hạ Long và những
dải mây trắng bồng bềnh quấn quanh người mát lạnh, tâm hồn thanh thản lạ
thường. Leo lên một đoạn dốc thẳng đứng, du khách được thưởng ngoại
cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Cả rừng trúc xanh bạt ngàn biếc mắt, khi một
làn gió nhẹ đưa mây trắng phủ kín, tạo nên một khung cảnh nên thơ và
một gam màu đầy sống động cho bức tranh Yên Tử.
Từ
am Ngọa Vân đi lên con đường gần như dựng đứng. Sen đất mọc thành bồn
trong những kẽ đá ven đường, lá hoe vàng, ram rám và tròn xoe, hoa năm
cánh, hồng tươi và mỏng, tỏa mùi hương dịu nhẹ, lan trắng, lan tía mọc
chen trong khóm trúc, hoa loa kèn nở rộ, phong lan buông từng chùm vàng
hay trắng, dọc đường trên mỗi quãng ngắn có một cây vạn tuế lá xanh thắm
bốn mùa. Nằm ở vị trí cheo leo, cao 724m so với mặt nước biển, tựa vào
vách đá cao chót vót hiện ra chùa Bảo Sái.
Thời kỳ Thượng Hoàng Trần Nhân Tông tu hành nơi đây chỉ có một am trong động, tên là Ngộ Ngữ Viện. Đại đệ tử thân tín nhất của Đệ Nhất Tổ là Bảo Sái đã tu hành ở đây. Bảo Sái được Trần Nhân Tông giao cho việc biên tập và ấn tống tất cả các kinh sách của Thiền phái Trúc Lâm rồi chuyển đến các chùa để truyền giảng Thiền tông cho tín đồ, phật tử trong cả nước. Sau khi thiền sư Bảo Sái viên tịch, Ngộ Ngữ Viện tiếp tục được mở rộng, đời sau lấy tên ngài đăt tên là chùa Bảo Sái.
Cạnh am là giếng Thiêng nước trong vắt và cây giội cổ thụ, bị móng vuốt hổ cào, trải qua bao năm tháng vẫn còn in vết như một huyền thoại. Dưới gốc cây là ông Hổ Đá quỳ hai chân trước nhìn vào am chăm chú như đang nghe kinh. Chuyện xưa kể rằng: Đã lâu lắm rồi, có một con hổ ở đâu về chùa, cứ mỗi lần sư chùa tụng kinh, gõ mõ là hổ lại đến bên gốc giổi nghe kinh kệ. Ngày tháng qua đi, hổ và nhà sư luôn sống gần nhau. Bỗng một ngày kia, sư chùa lâm bệnh rồi viên tịch. Vắng bóng nhà sư, không còn tiếng tụng kinh, gõ mõ, hổ đau đớn, thét gầm, ôm chặt thân cây giổi cào xé. Sau ngày đó, hổ biệt tăm. Để ghi lại sự tích này, đời sau đã tạc tượng hổ bên giếng thiêng và khắc vào vách đá 4 chữ “Hổ bao niết linh”, tức “dấu vết ôm cây của hổ thiêng”. Du khách đến chùa thường ra thắp hương cho ông hổ, chỉ cho nhau xem dấu vết móng vuốt hổ còn in đậm nơi này.
Cách chùa Bảo Sái vài trăm mét là chùa Vân Tiêu (chùa trên mây), tọa lạc trên gò núi cao, từ dưới nhìn lên có cảm giác như công trình kiến trúc này được nổi hẳn lên giữa trời mây bát ngát.
Xưa,
thì chùa chỉ là một am thất nhỏ. Sau khi Đệ Nhất Tổ hiển Phật, thì nơi
đây mới được xây dựng thành chùa. Trải qua mấy trăm năm, ngôi chùa đã
được nhiều lần trùng tu. Vào thời Lê, đích thân Chúa Trịnh đã đứng lên
làm chủ việc sửa chữa, tôn tạo lại chùa. Bia đá còn ghi lại sự kiện “Lê
triều- Đại nguyên soái Thống Quốc Chính”.Chùa đã bị cháy từ cuối thế kỷ
trước, nay chỉ còn nền gạch và bàn thờ Chúa Đại Ngàn, Năm 1992, ở đây đã
xây dựng một ngôi thờ Tam Tổ Trúc Lâm hình chữ “nhất”, lợp ngói vảy
rồng.
Phía trước chùa là năm ngọn tháp trước vươn lên dưới mấy gốc tùng cháy. Khu tháp này được gọi là Vọng Tiên Cung,
Tháp cao nhất 7m hình bát giác với 9 tầng cân đối là một trong những
tháp độc đáo nhất của khu Yên Tử. Tục truyền, Quốc sư Trúc Lâm Đại Sa
Môn Đạo Viên đã hóa thân hiển Phật ở đây.Trong hàng trăm ngôi tháp ở Yên Tử thì tháp “Vọng Tiên Cung” có kiểu kiến trúc riêng, độc đáo, phản ánh kiến trúc lăng tháp điển hình của thời Nguyễn. Bằng sự công đức của các phật tử thập phương, chùa Vân Tiêu được xây dựng lại năm 2001, có quy mô rộng lớn hơn, có cấu trúc hình chữ “đinh”, gồm bái đường và hậu cung, đón khách thập phương về thăm quan lễ Phật. Bên phải chùa Vân Tiêu là suối Hàm Long, khúc thượng lưu của suối Vàng, dòng nước trong veo, lưu lượng lớn, đều đặn, bốn mùa không thay đổi, tục truyền rằng du khách nào dừng chân tắm suối này thì da sẽ mịn hơn, người sẽ khỏe thêm.
Từ chùa Giải Oan đến chùa Bảo Sái là đường rừng, trúc, mai, giang bạt ngàn, mọc ken dày, thẳng tắp, mái lá rậm rạp, mượt mà phủ quanh các mái chùa, đỉnh tháp và rủ xuống hai bên lối đi. Ở đây ngoài nhiều loại trúc thường thấy có loại trúc hóa rồng thân vàng đậm, đốt chỗ thưa chỗ mau, gốc trồi lên mặt đất uốn cong với bộ rễ dày và xoăn tựa đầu rồng. Về mùa xuân, dưới những cơn mưa bụi, các loại măng bật lên từ lớp đất ẩm ướt phủ đầy lá mục: măng giang mập mạp, măng trúc vàng ánh, măng mai mảnh dẻ, tất cả đều mọc thẳng, nhọn hoắt làm cho rừng Yên Tử trẻ lại, đầy sức sống sau mùa khô hanh lạnh lẽo.
Rừng trúc là sản phẩm vô tận của Yên Tử, tượng trưng cho sinh lực dẻo dai và vẻ đẹp thanh bạch của thiên nhiên, có lẽ vì vậy Trần Nhân Tông đã lấy tên Trúc Lâm đặt tên cho phái thiền do ông sáng lập. Làm bạn với trúc, mai, giang là các loài chim. Chiều chiều khi hoàng hôn xuống, vô vàn cu xanh, cu đất, chào mào, cà cưỡng,cò lửa, chích chòe... bay về ngủ, đậu rợp rừng trúc, kêu chao chác, inh ỏi.
Nằm ở độ cao 900m, cách chùa Vân Tiêu 569m, trên một vùng đất phẳng và rộng, một nhà sư mặc áo thâm hai tay chắp trước ngực đứng lặng lẽ nhìn ra lối đi như đang cầu nguyện. Đó là một tảng đá cao 3,5m tương truyền là An Kỳ Sinh tu hành đắc đạo và hóa thành Phật đã nhập vào mảng đá này.
Pho tượng An Kỳ Sinh độc
đáo, vừa như một khối đá tự nhiên, vừa như có bàn tay con người tạo
dựng, sừng sững trên núi cao, tạo một không khí thần tiên cho không gian
nơi này. Chuyện xưa kể rằng, vào thời Tần Thủy Hoàng, ở làng Phù Hương,
đất Lạng Giang có người tên là An Kỳ Sinh thường đi chữa bệnh cho dân
nghèo ở vùng biển.
Khi Tần Thủy Hoàng đi đông du có mời ông đến nói chuyện y thuật và cho
tặng phẩm. Ông mang những vật phẩm đó vào đình làng rồi đi tìm thuốc
trường sinh bất tử cho nhà vua. Đi mãi đến Bạch Vân Sơn, thấy cảnh vật
hữu tình, đắc ý ở lại, hái lá cây, luyện đan làm thuốc cứu đời. Khi mới
đến Yên Tử, ông dựng am thuốc bào chế tại am Dược, sau chuyển lên khu
vực dựng tượng đá ngày nay rồi mất.
Từ An Kỳ Sinh lên chùa Đồng phải qua Cổng Trời.
Cổng trời là nơi con đường luồn qua giữa hai vách đá vuông vức, tạo
thành cổng tự nhiên, chắn hai bên, như để đi vào thiên đình của Tiên
Giới. Thấp hơn cổng trời, ở dưới là Bia Phật. Có rất nhiều khách sạn ở hạ long cho bạn lựa chọn hoặc bạn có thể chọn Khách Sạn Thương Mại Uông Bí ở Số 496 - Quang Trung - TP Uông Bí - Quảng Ninh
Khách sạn Thương Mại – Thuong mai Hotel; Trực thuộc Công ty CP Thương mại Dịch vụ Uông Bí – Quảng Ninh. Tọa lạc tại Trung tâm Thành phố Uông Bí (Số 496 - Đường Quang Trung - Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh); Sau khi được cải tạo, nâng cấp, mở rộng; Đạt tiêu chuẩn 3 sao, được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, hiện đại. Có thể nói vị trí của Khách sạn Thương Mại thực sự thuận tiện cho Quý khách đến Thăm quan du lịch, thực hiện Công vụ và Nghỉ dưỡng tại Thành phố Uông Bí – Quảng Ninh.
Khu du lịch Yên Trung là điểm đến tiếp theo
Đặc điểm: Từ thị xã Uông Bí đi khoảng 10km có biển chỉ dẫn rẽ phải theo một con đường trải nhựa, bạn sẽ tới khu du lịch Yên Trung.
Từ cổng đi vào khu du lịch khoảng 500m, dọc theo hai bên đường là những hàng thông vi vút, du khách sẽ tới một hồ nước đẹp và rộng, xung quanh là những đồi thông.
Giữa hồ có những đảo nhỏ, cây cối xanh tươi. Du khách có thể bơi thuyền dạo chơi trên hồ, ghé thăm các đảo nhỏ hoặc câu cá thư giãn. Tại khu du lịch này đã có “bản” dân tộc Mường, bản này nằm trên một quả đồi cao gồm ba ngôi nhà sàn được trang trí theo phong cách Mường.
Tại đây du khách có dịp tìm hiểu đời sống cộng đồng người Mường qua các vật dụng trưng bày: bếp, nồi nấu rượu, cối giã gạo, xay lúa, dụng cụ săn bắt hoặc giường, chăn, gối…
Trong tương lai khu du lịch này có thêm nhiều “bản” các dân tộc Việt Nam như Tày, Nùng, Thái… và nhiều loại hình dịch vụ khác sẽ đi vào hoạt động.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét