Trại Phú Hải

Trung tâm cải huấn phú hải – trại phú hải, đây là một
trại giám lớn và cổ nhất của hệ thống nhà tù Côn Đảo do Thực Dân Pháp
xây dựng từ những năm cuối thế kỷ 19.Tên gọi đầu tiên là Banh I, sang
thời mỹ ngụy gọi là Lao I, sau đó đổi tên là trại cộng hòa, trại hai, và
tên gọi cuối cùng là trại phú hải tên gọi này được sử dụng từ tháng
11/1974.Sau hiệp định Paris ký kết trong âm mưu ém dấu tù chính trị
không trao trả, địch cho đổi ten gọi tất cả các trại giam ở Côn Đảo, mỗi
trại đều được ghép với chử phú và hệ thống nhà tù Côn Đảo trực thuộc
TTCH Phú Hải.
Ngày 28/11/1861, thực dân pháp chiếm quần đảo Côn Đảo, sau đó hai tháng Thống Đốc Bonard ở nam kỳ ban hành nghị định thành lập khu giam cầm tại Côn Đảo, lập tức ở vị trì này họ cho xây lên một dãi nhà ngục nhưng tạm thời bằng vách đất, mái tranh và 50 tù nhân có án từ một đến mười năm bị đưa ra Côn Đảo giam vào đây vào đầu tháng 3/1862. sau đó ba tháng vào đêm 28/6/1862 50 tù nhân đã kết hợp với hơn 100 quan lính triều nguyễn làm cuộc khởi nghĩa nổi dậy đốt phá trại giam, đánh đuổi khoảng một chục tên cai ngục pháp phải bỏ chạy xuống một chiếc thuyền nhỏ về nước.
Nhưng sau cuộc khởi nghĩa số nghĩa binh này không tìm được phương tiện về đất liền nên hai tuần lể sau thực dân pháp phái một thông hạm Norazaray đến Côn Đảo tàn sát số nghĩa binh, họ giết chết hơn 100 người và bắt sống 20 tù nhân. Họ buộc 20 tù nhân này phải mang hơn 100 xác chết lên trên một đồi cát chôn chung một mồ, sau đó họ chôn sống luôn 20 tù nhân ở đó (di tích bãi sọ người).
Sau đó thực dân pháp có kế hoạch cho xây dựng một nhà ngục kiên cố với tổng diện tích là 12015 m2 có tường dày bao bọc bên ngoài.
Năm 1896 đã hoàn tất bao gồm :hai dãy khám giam được xây đối diện nhau, mỗi dãy 5 khám (đánh số từ trái sang phải 1-10), phía cuối sân, nối qua hai dãy khám có 20 hầm đá (còn gọi là xà lim) cuối dãy khám giam bên trái còn có một phòng giam “ tù đặc biệt”. Kế đó là “hầm xay lúa”, vừa là nơi khổ sai xay lúa, vừa là nơi đày ãi trừng phạt ngiệt ngã đối với tù nhân. Ở góc cuối bên phải còn có một khu đất trống dùng để phạt tù nhân khổ sai đập đá. Đây cũng là nơi dành cho những tù nhân bị ghép vào thành phần nguy hiểm, có thể vượt ngục bất cứ lúc nào.vì thế nên họ không dám cho đi làm khổ sai ở các sở tù bên ngoài.
Bình quân ở trên đảo có khoảng 18 sở tù khổ sai, háng ngày họ đưa tù nhân đi làm các công việc khổ sai ở các sở này, chiều về đến trước cửa phòng giam tù nhân phải cởi hết quần, áo cho cai ngục khám xét, cứ trần truồng như thế nằm ngủ. Nơi đây còn là hiện thân của “địa ngục trần gian” những công việc khổ sai như:xuống biển mò lấy san hô mang lên nung thành vôi bột, đến việc lên rừng khai thác đá, khéo gỗ, dọn tàu… còn rùng rợn hơn cả cái chết.
Sang thời Mỹ Ngụy để đánh lừa dư luận trong và ngòai nước, Mỹ Ngụy cho xây dựng: nhà nguyện, giảng đường, câu lạc bộ , nhà ăn, phòng hớt tóc….và cho chuyển “hầm xay lúa” thành bệnh xá của trại giam.Sân trại còn được trồng hoa kiểng như một công viên. Đây là một công trình vừa mang tính hình thức để đối phó với dư luận vừa dùng để mua chuộc dụ dỗ tù chính trị ly khai, tố cộng…
Có thể nói, tất cả các lớp tù từ thưở Cần Vương, Văn Thân chống pháp, đến nhiều chiến sỹ cách mạng việt nam, tiếp đến thế hệ nam nữ sinh viên học sinh xuống đường biểu tình chống mỹ –thiệu đều trải qua những năm tháng tù đày khốc liệt tại đây.
Phòng 6-còn được gọi là phòng chết điển hình: thời mỹ –ngụy, từ 1957 đây là nơi khởi đầu cuộc chiến tranh chống ly khai đảng cộng sản của tù chính trị câu lưu(không án);ngọn cờ đầu của phong trào đấu tranh bảo vệ khí tiết của tù chính trị Côn Đảo. Địch đã thực hiện âm mưu phân hóa giữa cộng sản và kháng chiến nhưng âm mưu đó thất bại nên họ đã ra sức đàn áp dã man những người tù chính trị, do đó mà người tù hy sinh ở đây rất nhiều. Chính vì vậy, phòng giam này vào thời mỹ ngụy được gọi là “phòng chết điển hình”
Năm 1995, để kỷ niệm 20 năm ngày Côn Đảo giải phóng,bộ văn hóa thông tin giao cho công ty mỹ thuật TW phục chế lại mô hình tượng nhằm tái hiện lại cảnh sống và sinh hoạt của tù nhân (thời thực dân pháp) trong 24 tiếng đòng hồ . Phòng giam lúc bấy giờ giam trung bình từ 80-120 tù nhân, nhưng sang thời mỹ ngụy số tù chính trị bị đày ra Côn Đảo ngày càng nhiều nên số lượng tù nhân tăng lên 100-150 người, lúc cao điểm lên đến 180 người. Những lúc ấy tù nhân nằm trên bệ không đủ phải nằm trên nền nhà. Khắc nghiệt nhất là lúc phạt cấm cố (xiềng chân) người tù nằm ở dưới bệ phải chịu cảnh treo chân lên thanh sắt.Thêm nữa là khi bị xiềng chân cấm cố tù nhân phải đi vệ sinh tại chổ vào một thùng gổ. Trên mỗi bệ ximăng có bố trí thùng gỗ để người tù đi vệ sinh và đây cũng là điều rất khắc nghiệt, bởi vì người nào có nhu cầu đi vệ sinh phải đánh thức những người bạn tù thức dậy hết để chuyển htùng gổ này lần lượt đến tay họ do đó mà suốt đêm tù nhân khó có thể ngủ yên giấc (thường là mỗi bệ chỉ bố trí có một thùng.
Phòng số 7: đây là nơi chi bộ Đảng Cộng Sản đầu tiên trong nhà tù Côn Đảo ra đời cuối năm 1932 tại banh I, sau phát triển thành Đảng ủy Côn Đảo,lãnh đạo cuộc đấu tranh của tù nhân với sự đóng góp xuất sắc của đồng chí Nguyễn Hới, Tôn Đức Thắng, Ngô Gia Tự, Trần Quan Tặng, Nguyễn Chí Diểu, Lê Văn Lương, Nguyễn Duy Trinh…..
Banh I cũng là nơi dnhững người cộng sản mở lớp học văn hóa, lý luận, chính trị. Đặc biệt là khóa học chủ nghĩ lênin theo chương trình huấn luyện của đại học phương đông(liên xô) do giáo sư trần văn giàu phụ trách. Tờ báo Tiến Lên (tiếng nói của hội tù nhân) và tờ ý kiến chung (cơ quan lý luận của tù chính trị)từ cuối năm 1935 cũng chuyển từ banh II về banh I.
*Phòng 9: Nơi đây từng giam giữ đồng chí Tôn Đức Thắng, Võ Sỹ, Võ Thúc Đồng,…. Và cũng là nơi biên soạn Tạp Chí “Ý Kiến Chung”. Ngày đầu tiên bác Tôn Đức Thắng bị đày ra Côn Đảo bị đưa vào khám giam này(2/7/1930).
*Phòng 10: Thời Mỹ Ngụy vào năm 1958 trong đợt chống học tập tố cộng địch đã đàn áp dã man 175 người tù chính trị trong âm mưu phân hgóa giữa cộng sản và kháng chiến nhưng địch đã không thực hiện được.
*Phòng giam tù đặc biệt: Ngoài 10 phòng giam ra còn có 1 phòng giam dành cho tù đặc biệt nằm phía sau câu lạc bộ. Thời pháp đã dùng nơi đây giam giữ những người làm khổ sai hàng ngày ở hầm sai lúa trong đó có bác tôn, phạm hùng,lê văn lương, ngô gia tự……sau đó (1946)thực dân pháp giam giữ 46 người tù có án tử hình đầu tiên.
Đến năm 1957, Mỹ Ngụy đã đưa ra 41 phụ nữ chống ly khai, tố cộng (đã có thành tích từ các nhà lao ở đất liền đưa ra Côn Đảo.
Sau đó năm 1958 – 1960, giam giữ đàn áp dã man cán bộ cốt cán chống học tập tố cộng ly khai Đảng Cộng Sản.
*Hầm xay lúa: Thời thực dân pháp đây là một căn phòng xây tường đá bao vây, ở trên có một lớp trần làm bằng vải đen, bao tời,… và chỉ có một cửa đi thông qua phòng giam đặc biệt (không có cửa thông gió như hiện nay) trong căn nhà bịt kín này được bố trí 5 cối xay lúa. Cối xay được làm bằng vỏ thùng rượu vang cưa đôi ra và lèn đất sét bên trong nên rất nặng mỗi cối phải có từ 4 đến 6 người mới kéo nổi. Từ công việc kéo cối xay, vác lúa gạo…..người tù làm khổ sai ở đây còn phải chịu thêm cực hình nữa là hai người bị xích chung một sợi dây xích có lê theo một quả tạ (quả tạ nặng trung bình từ 3-7kg). Có thể nói đây là nhà tù trong nhà tù.
Sang thời Mỹ Ngụy, để đánh lừa dư luận địch cho dẹp cối xay và chuyển thành bệnh xá. Bệnh xá ở nhà tù Côn Đảo được xem như một nhà xác. Tù nhân được chuyển đến đây để nằm chờ chết. Chưa kể trong chiến dịch đàn áp tù nhân chống ly khai địch dùng bệnh xá để mua chuộc dụ dỗ người tù trong cơn hấp hối.Một cái lắc đầu(không chấp nhận ly khai) lập tức mũi thuốc bơm bỏ xuống đất.Hoặc phát thuốc súng không đúng bệnh, bất kể bệng gì cũng phát một loại thuốc- thuốc ký ninh (thuốc trị bệnh sốt rét).
Khu xà lim: xà lim còn gọi là hầm đá, gồm có 20 hầm đá.địch sử dụng những xà lim này để biệt lập, cấm cố và đày ải những người tù bị ghép vào thành phần huy hiểm, ngoan cố, chống đối...hay những người vượt ngục bị bắt lại. Họ bị chốt chặt chân vào còng suốt ngày đêm, kể cả lúc ăn cơm và đi vệ sinh cho đến khi nào mãn hạn nằm hầm mới được cởi bỏ chiếc cùm ra(nếu nặng thì chốt cả hai chân). Trong 10 ngày đầu bị phạt ở xà lim người tù phải ăn cơm nhạt, uống nước lã(mặc dù thức ăn ở nhà tù Côn Đảo chỉ là khô, tương, mắm...để lâu ngày bị mục đắng, ôi chua...)
Hầm xây bằng đá cao hơn 2m, trần xây cuốn, ở đây nhà tù có cảm giác như bị nhốt vào nhà mồ, vào mùa nắng nóng bức thì hơi nóng hầm hập suốt ngày, mùa đông hơi đá toả ra lạnh thấu xương, cửa xà lim bằng gỗ or sắt dày, đóng vào là kính như hủ nút, chỉ được hé vội một chút khi cai ngục mang cơm đến, hay dội cho một thùng nước vào buổi sáng cuối tuần (gọi là được tắm),người tù bị nhốt vào xà lim ít lâu là người héo quắt lại “mắt mờ, bại liệt”.
Xà lim đôi: bên cạnh những xà lim đơn còn có những xà lim đôi, ở đây có thể giam một luc 10-30 người, cốt để cho người tù nóng bức, ngột ngạt vì thiếu không khí...làm kiệt sức và hao mòn sinh lực tù nhân, mặt khác muốn đánh vào tâm lý người tù bị cấm cố ở xà lim đơn, sẽ cảm thấy cô độc, không có bạn bè, đồng đội để chia sẻ, tâm sự hay chăm sóc như thế ý chí họ sẽ bị rạn nứt...
Xà lim số 9: còn lưu lại bốn câu thơ của người tù tên Huỳnh Văn Chẩn bị đưa vào hầm đá ngày 14/12/1958.
“Người cách mạng chịu nhiều gian khổ
Dẫu gian lao nhưng vẫn coi thường
Bền chí vững lập trường
Vượt qua gian khó trên đường quang vinh”
Nhà ăn: đây cũng là hình thức trá hình của mỹ ngụy. Từ khi xây dựng nhà ăn này (1963) cho đến ngày nhà tù được giải phóng, không một người tù nào được đến đây ăn cơm( kể cả tù thường phạm).
Khu đập đá : các cụ phan chu trinh, huỳnh thúc kháng, ngô đức kế, đặng nguyên cẩn...đã từng khổ sai đập đá tại đây.
Năm 1918 ông tú Phạm Cao Chẩm một nhân sĩ yêu nước ở Quảng Ngãi và người thanh niên Nguyễn Trọng Thạc, một tướng tài, con trai của cụ Nguyễn Thiện Thuật, thủ lĩnh nghĩa quân bãi sậy đã hi sinh tại đây cùng 81 người tù khổ sai trong cuộc nổi dậy ngày mồng 4 tết (mậu ngọ), dưới làn đạn súng máy của tên bạo chúa Andouard chỉ huy bắn giết.
Đây cũng là nơi chiến sỹ yêu nước phan chu trinh sáng tác bài thơ Đập Đá Côn Lôn (được đưa vào văn học VN).
Làm trai đứng giữa đất côn lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập vỡ mấy trăm hòn
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng càng bền dạ sắt son
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan chi kể việc con non.
Sang thời mỹ nguỵ nơi đây được chuyển làm trại mộc.
*Phòng số 3: thời mỹ ngụy đã giam cầm lần lược 250 tù tử hình (theo luật 10/59 cũa diệm ban hành). Đây cũng là nơi xảy ra cuộc vượt ngục hiếm thấy ở Nhà Tù Côn Đảo.
Vào đêm 12/10/1966, đồng chí Lê Văn Việt (tên trong tù là Nguyễn Văn Hai) chiến sĩ biệt động sài gòn, người đã từng làm chân động thủ đô sài gòn trong trận đánh sập tòa đại sứ mỹ năm 1965, cùng với chiến sĩ đặc công Phạm Văn Dẩu và sinh viên yêu nước Lê Hồng Tư đã dũng cảm trổ máy ngói khám tử hình vượt ngục tuy cuộc vượt ngục bất thành trong vòng 10 ngày sau ba người tử tù điều bị địch bắt lại song cuột vượt ngục ấy đã làm rung động bộ máy cai trị nhà tù Côn Đảo, địch phải gấp rút cho giăng dây thép gai kín trên nóc các phòng giam.
Banh I : là điển hình của chế độ khổ sai giết tù. Hầu như mỗi mảnh đất Côn Đảo đều khắt sâu nổi cực nhọc và thấm máu của người tù khổ sai. Trong sự đọa dày khốn cùng, những người cộng sản, những người yêu nước việt nam ở đây phải quyết định vân mênh hoặt là chịu chết mỏi mòn, hoặc là đâu tranh để sống trở vê tiếp tục hoạt động cách mạng họ phải chống chọi cả một bộ máy khủng bố từ tên chúa đảo đến đám gác ngục và bọn cập rằng tay sai. Điều đó đòi hỏi những người tù cộng sản phải được tổ chức thành đội ngũ chặt chẽ, hình thức đấu tranh thích hợp.
Trước cách mạng tháng tám 1945 một chi bộ đặc biệt được thành lập tại đây đã xác định những nhiệm vụ chủ yếu của người chiến sĩ cách mạng trong nhà tù và lòng trung thành với Đảng được đặt lên hàng đầu.
Tiếp theo lời kháng chiến chống pháp, những người tù chính trị ở banh một đã tổ chức ra liên đoàn tù nhân Côn Đảo (1947) và đảng ủy nhà tù (1950), sau gọi là đảo ủy. Liên đoàn tù nhân được tổ chức chặc chẻ ở từng trại từng phòng từng kiếp tù cho đến tận mâm ăn, tổ nhóm, giống như một cơ quan quyền lực của tù nhân.
Banh một đã trải qua 113 năm với bề dày lịch sử ngang tuổi nhà tù còn lưu lại nhiều dấu ấn anh hùng trong cuộc đấu tranh lâu dài và bất khuất của những người yêu nước và Cách Mạng Việt Nam trong nhà tù thực dân đế quốc.
Có rất nhiều khách sạn tại vũng tàu cho bạn lựa chọn. Chẳng hạn như Khách Sạn Hải An ở Đường Hồ Thanh Tòng, Đảo Côn Đảo,Vũng Tàu, Việt Nam.
Nằm ở vị trí thuận lợi trong Biển Lò Vôi, Hải An Hotel là một điểm lý tưởng để khởi hành chuyến du ngoạn của bạn ở Đảo Côn Đảo (Vũng Tàu). Chỉ cách trung tâm thành phố khoảng 0.2 km và bạn có thể đến sân bay trong vòng 20 phút. Và cũng có thể dễ dàng đến Vườn quốc gia, Sân bay Cỏ Ống.
Tại Hải An Hotel, dịch vụ hoàn hảo và thiết bị tối tân tạo nên một kì nghỉ khó quên. Nói đến một số thiết bị trong khách sạn, có dịch vụ đưa đón, dịch vụ du lịch, cho thuê xe đạp, đưa đón khách sạn/sân bay, cho phép mang theo vật nuôi.
Thêm vào đó, tất cả những phòng khách đều được đặc biệt trang bị những tiện nghi như tủ lạnh, máy lạnh, tivi, truy cập internet không dây, truy cập internet không dây (miễn phí) để làm hài lòng những vị khách khó tính nhất. Bên cạnh đó, khách sạn còn gợi ý cho bạn những hoạt động vui chơi giải trí bảo đảm bạn luôn thấy hứng thú trong suốt kì nghỉ. Dù bạn đến để thư giãn hay làm gì, Hải An Hotel luôn là sự lựa chọn hoàn hảo cho kì nghỉ của bạn ở Đảo Côn Đảo (Vũng Tàu).
Ngày 28/11/1861, thực dân pháp chiếm quần đảo Côn Đảo, sau đó hai tháng Thống Đốc Bonard ở nam kỳ ban hành nghị định thành lập khu giam cầm tại Côn Đảo, lập tức ở vị trì này họ cho xây lên một dãi nhà ngục nhưng tạm thời bằng vách đất, mái tranh và 50 tù nhân có án từ một đến mười năm bị đưa ra Côn Đảo giam vào đây vào đầu tháng 3/1862. sau đó ba tháng vào đêm 28/6/1862 50 tù nhân đã kết hợp với hơn 100 quan lính triều nguyễn làm cuộc khởi nghĩa nổi dậy đốt phá trại giam, đánh đuổi khoảng một chục tên cai ngục pháp phải bỏ chạy xuống một chiếc thuyền nhỏ về nước.
Nhưng sau cuộc khởi nghĩa số nghĩa binh này không tìm được phương tiện về đất liền nên hai tuần lể sau thực dân pháp phái một thông hạm Norazaray đến Côn Đảo tàn sát số nghĩa binh, họ giết chết hơn 100 người và bắt sống 20 tù nhân. Họ buộc 20 tù nhân này phải mang hơn 100 xác chết lên trên một đồi cát chôn chung một mồ, sau đó họ chôn sống luôn 20 tù nhân ở đó (di tích bãi sọ người).
Sau đó thực dân pháp có kế hoạch cho xây dựng một nhà ngục kiên cố với tổng diện tích là 12015 m2 có tường dày bao bọc bên ngoài.
Năm 1896 đã hoàn tất bao gồm :hai dãy khám giam được xây đối diện nhau, mỗi dãy 5 khám (đánh số từ trái sang phải 1-10), phía cuối sân, nối qua hai dãy khám có 20 hầm đá (còn gọi là xà lim) cuối dãy khám giam bên trái còn có một phòng giam “ tù đặc biệt”. Kế đó là “hầm xay lúa”, vừa là nơi khổ sai xay lúa, vừa là nơi đày ãi trừng phạt ngiệt ngã đối với tù nhân. Ở góc cuối bên phải còn có một khu đất trống dùng để phạt tù nhân khổ sai đập đá. Đây cũng là nơi dành cho những tù nhân bị ghép vào thành phần nguy hiểm, có thể vượt ngục bất cứ lúc nào.vì thế nên họ không dám cho đi làm khổ sai ở các sở tù bên ngoài.
Bình quân ở trên đảo có khoảng 18 sở tù khổ sai, háng ngày họ đưa tù nhân đi làm các công việc khổ sai ở các sở này, chiều về đến trước cửa phòng giam tù nhân phải cởi hết quần, áo cho cai ngục khám xét, cứ trần truồng như thế nằm ngủ. Nơi đây còn là hiện thân của “địa ngục trần gian” những công việc khổ sai như:xuống biển mò lấy san hô mang lên nung thành vôi bột, đến việc lên rừng khai thác đá, khéo gỗ, dọn tàu… còn rùng rợn hơn cả cái chết.
Sang thời Mỹ Ngụy để đánh lừa dư luận trong và ngòai nước, Mỹ Ngụy cho xây dựng: nhà nguyện, giảng đường, câu lạc bộ , nhà ăn, phòng hớt tóc….và cho chuyển “hầm xay lúa” thành bệnh xá của trại giam.Sân trại còn được trồng hoa kiểng như một công viên. Đây là một công trình vừa mang tính hình thức để đối phó với dư luận vừa dùng để mua chuộc dụ dỗ tù chính trị ly khai, tố cộng…
Có thể nói, tất cả các lớp tù từ thưở Cần Vương, Văn Thân chống pháp, đến nhiều chiến sỹ cách mạng việt nam, tiếp đến thế hệ nam nữ sinh viên học sinh xuống đường biểu tình chống mỹ –thiệu đều trải qua những năm tháng tù đày khốc liệt tại đây.
Phòng 6-còn được gọi là phòng chết điển hình: thời mỹ –ngụy, từ 1957 đây là nơi khởi đầu cuộc chiến tranh chống ly khai đảng cộng sản của tù chính trị câu lưu(không án);ngọn cờ đầu của phong trào đấu tranh bảo vệ khí tiết của tù chính trị Côn Đảo. Địch đã thực hiện âm mưu phân hóa giữa cộng sản và kháng chiến nhưng âm mưu đó thất bại nên họ đã ra sức đàn áp dã man những người tù chính trị, do đó mà người tù hy sinh ở đây rất nhiều. Chính vì vậy, phòng giam này vào thời mỹ ngụy được gọi là “phòng chết điển hình”
Năm 1995, để kỷ niệm 20 năm ngày Côn Đảo giải phóng,bộ văn hóa thông tin giao cho công ty mỹ thuật TW phục chế lại mô hình tượng nhằm tái hiện lại cảnh sống và sinh hoạt của tù nhân (thời thực dân pháp) trong 24 tiếng đòng hồ . Phòng giam lúc bấy giờ giam trung bình từ 80-120 tù nhân, nhưng sang thời mỹ ngụy số tù chính trị bị đày ra Côn Đảo ngày càng nhiều nên số lượng tù nhân tăng lên 100-150 người, lúc cao điểm lên đến 180 người. Những lúc ấy tù nhân nằm trên bệ không đủ phải nằm trên nền nhà. Khắc nghiệt nhất là lúc phạt cấm cố (xiềng chân) người tù nằm ở dưới bệ phải chịu cảnh treo chân lên thanh sắt.Thêm nữa là khi bị xiềng chân cấm cố tù nhân phải đi vệ sinh tại chổ vào một thùng gổ. Trên mỗi bệ ximăng có bố trí thùng gỗ để người tù đi vệ sinh và đây cũng là điều rất khắc nghiệt, bởi vì người nào có nhu cầu đi vệ sinh phải đánh thức những người bạn tù thức dậy hết để chuyển htùng gổ này lần lượt đến tay họ do đó mà suốt đêm tù nhân khó có thể ngủ yên giấc (thường là mỗi bệ chỉ bố trí có một thùng.
Phòng số 7: đây là nơi chi bộ Đảng Cộng Sản đầu tiên trong nhà tù Côn Đảo ra đời cuối năm 1932 tại banh I, sau phát triển thành Đảng ủy Côn Đảo,lãnh đạo cuộc đấu tranh của tù nhân với sự đóng góp xuất sắc của đồng chí Nguyễn Hới, Tôn Đức Thắng, Ngô Gia Tự, Trần Quan Tặng, Nguyễn Chí Diểu, Lê Văn Lương, Nguyễn Duy Trinh…..
Banh I cũng là nơi dnhững người cộng sản mở lớp học văn hóa, lý luận, chính trị. Đặc biệt là khóa học chủ nghĩ lênin theo chương trình huấn luyện của đại học phương đông(liên xô) do giáo sư trần văn giàu phụ trách. Tờ báo Tiến Lên (tiếng nói của hội tù nhân) và tờ ý kiến chung (cơ quan lý luận của tù chính trị)từ cuối năm 1935 cũng chuyển từ banh II về banh I.
*Phòng 9: Nơi đây từng giam giữ đồng chí Tôn Đức Thắng, Võ Sỹ, Võ Thúc Đồng,…. Và cũng là nơi biên soạn Tạp Chí “Ý Kiến Chung”. Ngày đầu tiên bác Tôn Đức Thắng bị đày ra Côn Đảo bị đưa vào khám giam này(2/7/1930).
*Phòng 10: Thời Mỹ Ngụy vào năm 1958 trong đợt chống học tập tố cộng địch đã đàn áp dã man 175 người tù chính trị trong âm mưu phân hgóa giữa cộng sản và kháng chiến nhưng địch đã không thực hiện được.
*Phòng giam tù đặc biệt: Ngoài 10 phòng giam ra còn có 1 phòng giam dành cho tù đặc biệt nằm phía sau câu lạc bộ. Thời pháp đã dùng nơi đây giam giữ những người làm khổ sai hàng ngày ở hầm sai lúa trong đó có bác tôn, phạm hùng,lê văn lương, ngô gia tự……sau đó (1946)thực dân pháp giam giữ 46 người tù có án tử hình đầu tiên.
Đến năm 1957, Mỹ Ngụy đã đưa ra 41 phụ nữ chống ly khai, tố cộng (đã có thành tích từ các nhà lao ở đất liền đưa ra Côn Đảo.
Sau đó năm 1958 – 1960, giam giữ đàn áp dã man cán bộ cốt cán chống học tập tố cộng ly khai Đảng Cộng Sản.
*Hầm xay lúa: Thời thực dân pháp đây là một căn phòng xây tường đá bao vây, ở trên có một lớp trần làm bằng vải đen, bao tời,… và chỉ có một cửa đi thông qua phòng giam đặc biệt (không có cửa thông gió như hiện nay) trong căn nhà bịt kín này được bố trí 5 cối xay lúa. Cối xay được làm bằng vỏ thùng rượu vang cưa đôi ra và lèn đất sét bên trong nên rất nặng mỗi cối phải có từ 4 đến 6 người mới kéo nổi. Từ công việc kéo cối xay, vác lúa gạo…..người tù làm khổ sai ở đây còn phải chịu thêm cực hình nữa là hai người bị xích chung một sợi dây xích có lê theo một quả tạ (quả tạ nặng trung bình từ 3-7kg). Có thể nói đây là nhà tù trong nhà tù.
Sang thời Mỹ Ngụy, để đánh lừa dư luận địch cho dẹp cối xay và chuyển thành bệnh xá. Bệnh xá ở nhà tù Côn Đảo được xem như một nhà xác. Tù nhân được chuyển đến đây để nằm chờ chết. Chưa kể trong chiến dịch đàn áp tù nhân chống ly khai địch dùng bệnh xá để mua chuộc dụ dỗ người tù trong cơn hấp hối.Một cái lắc đầu(không chấp nhận ly khai) lập tức mũi thuốc bơm bỏ xuống đất.Hoặc phát thuốc súng không đúng bệnh, bất kể bệng gì cũng phát một loại thuốc- thuốc ký ninh (thuốc trị bệnh sốt rét).
Khu xà lim: xà lim còn gọi là hầm đá, gồm có 20 hầm đá.địch sử dụng những xà lim này để biệt lập, cấm cố và đày ải những người tù bị ghép vào thành phần huy hiểm, ngoan cố, chống đối...hay những người vượt ngục bị bắt lại. Họ bị chốt chặt chân vào còng suốt ngày đêm, kể cả lúc ăn cơm và đi vệ sinh cho đến khi nào mãn hạn nằm hầm mới được cởi bỏ chiếc cùm ra(nếu nặng thì chốt cả hai chân). Trong 10 ngày đầu bị phạt ở xà lim người tù phải ăn cơm nhạt, uống nước lã(mặc dù thức ăn ở nhà tù Côn Đảo chỉ là khô, tương, mắm...để lâu ngày bị mục đắng, ôi chua...)
Hầm xây bằng đá cao hơn 2m, trần xây cuốn, ở đây nhà tù có cảm giác như bị nhốt vào nhà mồ, vào mùa nắng nóng bức thì hơi nóng hầm hập suốt ngày, mùa đông hơi đá toả ra lạnh thấu xương, cửa xà lim bằng gỗ or sắt dày, đóng vào là kính như hủ nút, chỉ được hé vội một chút khi cai ngục mang cơm đến, hay dội cho một thùng nước vào buổi sáng cuối tuần (gọi là được tắm),người tù bị nhốt vào xà lim ít lâu là người héo quắt lại “mắt mờ, bại liệt”.
Xà lim đôi: bên cạnh những xà lim đơn còn có những xà lim đôi, ở đây có thể giam một luc 10-30 người, cốt để cho người tù nóng bức, ngột ngạt vì thiếu không khí...làm kiệt sức và hao mòn sinh lực tù nhân, mặt khác muốn đánh vào tâm lý người tù bị cấm cố ở xà lim đơn, sẽ cảm thấy cô độc, không có bạn bè, đồng đội để chia sẻ, tâm sự hay chăm sóc như thế ý chí họ sẽ bị rạn nứt...
Xà lim số 9: còn lưu lại bốn câu thơ của người tù tên Huỳnh Văn Chẩn bị đưa vào hầm đá ngày 14/12/1958.
“Người cách mạng chịu nhiều gian khổ
Dẫu gian lao nhưng vẫn coi thường
Bền chí vững lập trường
Vượt qua gian khó trên đường quang vinh”
Nhà ăn: đây cũng là hình thức trá hình của mỹ ngụy. Từ khi xây dựng nhà ăn này (1963) cho đến ngày nhà tù được giải phóng, không một người tù nào được đến đây ăn cơm( kể cả tù thường phạm).
Khu đập đá : các cụ phan chu trinh, huỳnh thúc kháng, ngô đức kế, đặng nguyên cẩn...đã từng khổ sai đập đá tại đây.
Năm 1918 ông tú Phạm Cao Chẩm một nhân sĩ yêu nước ở Quảng Ngãi và người thanh niên Nguyễn Trọng Thạc, một tướng tài, con trai của cụ Nguyễn Thiện Thuật, thủ lĩnh nghĩa quân bãi sậy đã hi sinh tại đây cùng 81 người tù khổ sai trong cuộc nổi dậy ngày mồng 4 tết (mậu ngọ), dưới làn đạn súng máy của tên bạo chúa Andouard chỉ huy bắn giết.
Đây cũng là nơi chiến sỹ yêu nước phan chu trinh sáng tác bài thơ Đập Đá Côn Lôn (được đưa vào văn học VN).
Làm trai đứng giữa đất côn lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập vỡ mấy trăm hòn
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng càng bền dạ sắt son
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan chi kể việc con non.
Sang thời mỹ nguỵ nơi đây được chuyển làm trại mộc.


*Phòng số 3: thời mỹ ngụy đã giam cầm lần lược 250 tù tử hình (theo luật 10/59 cũa diệm ban hành). Đây cũng là nơi xảy ra cuộc vượt ngục hiếm thấy ở Nhà Tù Côn Đảo.
Vào đêm 12/10/1966, đồng chí Lê Văn Việt (tên trong tù là Nguyễn Văn Hai) chiến sĩ biệt động sài gòn, người đã từng làm chân động thủ đô sài gòn trong trận đánh sập tòa đại sứ mỹ năm 1965, cùng với chiến sĩ đặc công Phạm Văn Dẩu và sinh viên yêu nước Lê Hồng Tư đã dũng cảm trổ máy ngói khám tử hình vượt ngục tuy cuộc vượt ngục bất thành trong vòng 10 ngày sau ba người tử tù điều bị địch bắt lại song cuột vượt ngục ấy đã làm rung động bộ máy cai trị nhà tù Côn Đảo, địch phải gấp rút cho giăng dây thép gai kín trên nóc các phòng giam.
Banh I : là điển hình của chế độ khổ sai giết tù. Hầu như mỗi mảnh đất Côn Đảo đều khắt sâu nổi cực nhọc và thấm máu của người tù khổ sai. Trong sự đọa dày khốn cùng, những người cộng sản, những người yêu nước việt nam ở đây phải quyết định vân mênh hoặt là chịu chết mỏi mòn, hoặc là đâu tranh để sống trở vê tiếp tục hoạt động cách mạng họ phải chống chọi cả một bộ máy khủng bố từ tên chúa đảo đến đám gác ngục và bọn cập rằng tay sai. Điều đó đòi hỏi những người tù cộng sản phải được tổ chức thành đội ngũ chặt chẽ, hình thức đấu tranh thích hợp.
Trước cách mạng tháng tám 1945 một chi bộ đặc biệt được thành lập tại đây đã xác định những nhiệm vụ chủ yếu của người chiến sĩ cách mạng trong nhà tù và lòng trung thành với Đảng được đặt lên hàng đầu.
Tiếp theo lời kháng chiến chống pháp, những người tù chính trị ở banh một đã tổ chức ra liên đoàn tù nhân Côn Đảo (1947) và đảng ủy nhà tù (1950), sau gọi là đảo ủy. Liên đoàn tù nhân được tổ chức chặc chẻ ở từng trại từng phòng từng kiếp tù cho đến tận mâm ăn, tổ nhóm, giống như một cơ quan quyền lực của tù nhân.
Banh một đã trải qua 113 năm với bề dày lịch sử ngang tuổi nhà tù còn lưu lại nhiều dấu ấn anh hùng trong cuộc đấu tranh lâu dài và bất khuất của những người yêu nước và Cách Mạng Việt Nam trong nhà tù thực dân đế quốc.
Có rất nhiều khách sạn tại vũng tàu cho bạn lựa chọn. Chẳng hạn như Khách Sạn Hải An ở Đường Hồ Thanh Tòng, Đảo Côn Đảo,Vũng Tàu, Việt Nam.
Nằm ở vị trí thuận lợi trong Biển Lò Vôi, Hải An Hotel là một điểm lý tưởng để khởi hành chuyến du ngoạn của bạn ở Đảo Côn Đảo (Vũng Tàu). Chỉ cách trung tâm thành phố khoảng 0.2 km và bạn có thể đến sân bay trong vòng 20 phút. Và cũng có thể dễ dàng đến Vườn quốc gia, Sân bay Cỏ Ống.
Tại Hải An Hotel, dịch vụ hoàn hảo và thiết bị tối tân tạo nên một kì nghỉ khó quên. Nói đến một số thiết bị trong khách sạn, có dịch vụ đưa đón, dịch vụ du lịch, cho thuê xe đạp, đưa đón khách sạn/sân bay, cho phép mang theo vật nuôi.
Thêm vào đó, tất cả những phòng khách đều được đặc biệt trang bị những tiện nghi như tủ lạnh, máy lạnh, tivi, truy cập internet không dây, truy cập internet không dây (miễn phí) để làm hài lòng những vị khách khó tính nhất. Bên cạnh đó, khách sạn còn gợi ý cho bạn những hoạt động vui chơi giải trí bảo đảm bạn luôn thấy hứng thú trong suốt kì nghỉ. Dù bạn đến để thư giãn hay làm gì, Hải An Hotel luôn là sự lựa chọn hoàn hảo cho kì nghỉ của bạn ở Đảo Côn Đảo (Vũng Tàu).
Và đến thăm các điểm gần đó :
Nhà Chúa Đảo

Khu nhà có tổng diện tích 18.600 m2, trong đó nhà chính và phụ 1.250
m2, sân vườn 17.000m2 cổng nhìn ra thẳng Cầu Tàu. Đây là nơi ở làm việc
của 53 đời chúa đảo trong suốt 113 năm từ 1862-1975. Trong số đó, có
nhiều tên chúa đảo khét tiếng tàn bạo, như Andouard từng được mệnh danh
là “Tên đao phủ ở Côn Lôn”. Tiếp đó là tên Bouvier làm chúa đảo trong
những năm 1927-1942, đã giết hại 802 người tù từ 1930-1934.
Thời Việt Nam Cộng Hoà, tên Nguyễn Văn Vệ làm chúa đảo từ 1965-1974, đã thiết lập chế độ nhà tù nghiệt ngã nhất là chuồng cọp, dùng sào nhọn bịt đồng, dùng vôi bột, gậy gộc để đàn áp tù nhân, gây vụ “chuồng cọp Côn Đảo” 1970 làm chấn động dư luận trong và ngoài nước. Từ sau ngày giải phóng đến nay, nhà chúa Đảo được dùng làm nơi trưng bày lưu niệm về khu di tích Côn Đảo.
Thời Việt Nam Cộng Hoà, tên Nguyễn Văn Vệ làm chúa đảo từ 1965-1974, đã thiết lập chế độ nhà tù nghiệt ngã nhất là chuồng cọp, dùng sào nhọn bịt đồng, dùng vôi bột, gậy gộc để đàn áp tù nhân, gây vụ “chuồng cọp Côn Đảo” 1970 làm chấn động dư luận trong và ngoài nước. Từ sau ngày giải phóng đến nay, nhà chúa Đảo được dùng làm nơi trưng bày lưu niệm về khu di tích Côn Đảo.
Cầu Tàu


Cầu
Tàu được khởi công xây dựng vào văn 1873,với chiều dài là 107m, từ mép
lộ trước cổng dinh Chúa Đảo lao thẳng ra vịnh Côn Sơn. Dấu ấn sâu lắng
nhất đọng lại di tích lịch sử này. Trong hơn một thế kỷ qua chọn là
những phiến đá ngổn ngang, sắp lớp. Những tảng đá đó đã đè nát bao nhiêu
thân tù khi họ đưa nó từ núi Chùa về đây. Cái thời đau thương ấy như
vẫn còn âm vang trong từng phiến đá và có câu trường hận của tù nhân :
"Côn Lôn ơi, viên đá mạng người....".
Cầu Tàu
đã từng rợp bóng cờ đỏ sao vàng những ngày Cách Mạng Tháng Tám (1945)
thành công ở Côn Đảo. Trên 2000 tù nhân đã trở về tiếp tục cuộc kháng
chiến chống Pháp. Một số người đã trở thành những đồng chí lãnh đạo
Đảng và Nhà nước. Ngày 4/5/1975 trên chuyến tàu đầu tiên ra giải phóng
Côn Đảo 500 bức ảnh Bác Hồ được in lụa đã được chuyển tới Cầu Tàu để về
đất liền, chấm dứt hơn một thế kỷ "địa ngục trần gian " nơi Côn Đảo.
Món đặc sản không nên quên mua về làm quà sau chuyến du lịch Côn Đảo .
Đến Côn
Đảo đừng quên dùng đặc sản mứt hột bàng. Có hai loại ngọt và mặn. Đó là
món ăn mà chỉ có ở hòn đảo này. Bàng là cây rừng ở đây, lá và quả thật
to. Người dân thu hoạch quả bàng đem phơi cho dốt vỏ rồi trong những
lúc rỗi việc nhà đem ra chẻ lấy hột. Hột bàng mới tách ra có màu nâu
giống như màu gỗ được đánh vẹc-ni. Ngồi một lúc, có khi vừa chẻ vừa
tách chỉ được chừng 1kg hột. Sau đó đem rang muối hoặc rang đường tùy
ý. Gọi là mứt nhưng giống như món đậu phộng rang muối, đường ở đất
liền. Nhón mấy hạt bỏ vào miệng, vị ngọt của đường hay vị mặn của muối
hòa lẫn vị bùi và béo ngồ ngộ ở đầu lưỡi, du khách chỉ có thể gật đầu
công nhận: ngon và rất đặc biệt.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét