Hội Gióng Phù Đổng


Nếu đi từ đường 5 rẽ vào đường 1 mới mở,
đi qua cầu sông Đuống là ta thấy con đường đê bên phải dẫn đến làng Phủ
Đổng. Ngay trên đê nhìn xuống sẽ thấy ngôi đền Gióng tuyệt đẹp với gốc
đa cổ thụ xum xuê xanh mát, với hồ bán nguyệt và lớp lớp mái ngói rêu
phong của các mái đền cổ kính.

Bên góc hồ, có một ngôi thủy đình tám
mái uốn cong, là nơi hóng mát ngày thường và là sân khấu biểu diễn rối
nước vào các ngày lễ hội. Đây là ngôi đền vẫn còn đầy đủ khuôn viên hoàn
chỉnh và nằm trong tầm nhìn rất đẹp từ phía mặt đê.
Tương truyền đền này được dựng trên
nền nhà cũ của Thánh Gióng và gọi là chùa Thượng. Hội chính vào ngày 9
tháng Tư âm lịch. Phía ngoài đê còn có chùa Hạ thờ mẹ Thánh Gióng, gần
nơi được cho là có dấu chân khổng lồ mà bà đã ướm thử rồi mang thai và
sinh ra Thánh.


Theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân
gian, hội Gióng ở Sóc Sơn (nơi thánh Gióng bay về trời) và hội Gióng ở
xã Phù Đổng (nơi sinh ra thánh Gióng) có ý nghĩa và hoàn chỉnh hơn
những nơi khác, từ ý tứ truyền thuyết đến nghệ thuật diễn xướng. Những
nghi thức được quan tâm, chứa đựng trong nó sự huyền bí và sức sống của
một huyền thoại gắn liền với lòng tự chủ dân tộc của người Việt Nam.


Diễn xướng kéo chữ Thái Bình của đoàn xã Phù Linh, Sóc Sơn.
Hội Gióng Phù Đổng chính thống
được tổ chức hàng năm vào hai ngày mùng 8 và mùng 9 tháng 4 âm lịch tại
xã Phù Đổng, huỵện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, nơi sinh ra người anh
hùng huyền thoại “Phù Đổng Thiên Vương“. Hội gióng Phù Đổng có sức hấp
dẫn trong việc hoàn thiện nhân cách con người, dân gian từng ghi nhận
bằng câu ca dao:
"Ai ơi mùng chín tháng tư
Không đi Hội gióng cũng hư mất người"

Mở đầu cho màn hội Gióng 2011 là tiết mục hát quan họ đón mừng du khách.



Lễ hội mở đầu với lễ tế thánh, lễ rước cờ từ đền Mẫu về đền Thượng
với sự tham gia của hàng trăm người dân, thể hiện sức mạnh của đội quân
Thánh Gióng. Tiếp đó, phường Ải Lao (còn gọi là phường Tùng Choặc)
diễn trò săn hổ trước đền Thượng, biểu trưng cho tinh thần đoàn kết
chiến thắng thú dữ.

Để biểu đạt những ý tưởng và triết lý dân gian, Hội Gióng Phù Đổng có
dàn vai diễn hết sức phong phú và độc đáo. Đó là các ông “Hiệu“, hệ
thống tướng lĩnh của Ông Gióng: “Phù Giá“,đội quân chính quy ; các “Cô
Tướng“, tượng trưng các đạo quân xâm lược; Phường “Ải Lao“, trong đó có
“Ông Hổ“,đội quân tổng hợp; “Làng áo đỏ“, đội quân trinh sát nhỏ tuổi;
“Làng áo đen“,đội dân binh ....
Lễ Hội Gióng được bắt đầu tổ chức từ
khoảng thế kỷ XI, vào đời Vua Lý Thái Tổ. Lý Công Uẩn sau khi sáng lập
ra Triều Lý, thường đến đền thờ Thánh Gióng ở làng Phù Đổng dâng hương
cầu xin thần cho biết vận mệnh đất nước. Chính Vua Lý Thái Tổ đã ra
lệnh tôn tạo, mở rộng đền Phù Đổng và quy định thể thức tổ chức lễ hội
Gióng.





Nhân vật Ông Hiệu trống trong quân đội của Ông Gióng

Các ông “Hiệu” làm lễ xuất tướng trước đền.
Lễ hội Gióng làng Phù Đổng là một lễ hội
truyền thống được diễn ra từ thời Lý. Lễ hội được dân chúng các làng
Phù Đổng, Phù Dực, Đổng Viên, Đổng Xuyên đứng ra tổ chức và nó đã trở
thành lễ hội nổi tiếng nhất vùng châu thổ Bắc Bộ.

Ngựa gỗ tượng trưng cho ngựa sắt của Thánh Gióng năm xưa


Trước kia lễ hội diễn ra trong 12 ngày (từ mùng 1 đến 12/4 âm lịch). Ngày nay lễ hội Thánh Gióng được diễn ra chính thức trong 3 ngày (từ mùng 7 - 9/4 âm lịch). Hội Gióng được mở ra để nhớ lại chiến trận năm xưa và tưởng nhớ đến công ơn của vị Thánh làng. Trong 3 ngày diễn ra hội Gióng, vào các buổi sáng sớm, bao giờ cũng phải tiến hành nghi thức tế Thánh trước khi triển khai thực hành các hình thức khác của diễn xướng hội.

Lễ rước nước mở màn hội Gióng thể hiện ý nghĩa lấy nước rửa khí giới trước khi bước vào trận chiến
và cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi
Hội Gióng như là một kịch trường dân
gian rộng lớn với hàng trăm vai diễn tiến hành theo một kịch bản đã
được chuẩn hoá. Cũng như các đạo cụ, y phục, mỗi một chương mục, mỗi
một vai diễn đều chứa đựng những ý nghĩa hết sức sâu sắc. “Dước khám
đường“ là trinh sát giặc; “Rước nước“ là để tôi luyện khí giới trước
khi xuất quân; “Rước Đống Đàm“ là đi đàm phán kêu gọi hoà bình; Rước
Trận Soi Bia“ là mô phỏng cách điệu trận đánh ác liệt.


Lại như lá cờ phướn màu đỏ mà trên đó
cao viết chữ “Lệnh“ tôn nghiêm cùng với các động tác múa cờ Lệnh của
ông Hiệu Cờ (vai diễn tượng trưng Ông Gióng) là biểu đạt một số quan
điểm cơ bản của phép luỵện quân cùng phương pháp tác chiến để giành
thắng lợi. Đó là “Quân lệnh phải nghiêm minh“ “Binh pháp phải mưu lược
sáng tạo“ (Múa cờ thuận và múa cờ nghịch).

Diễn xướng nghi lễ đá bát biểu hiện sức mạnh “bạt núi san đồi” của Thánh Gióng.


Còn như phù giá ngoại (đội hình có tới
120 người ) là những vai diễn đóng khố, cởi trần, đầu đội mũ có hình
quả dưa, trên có đính chín con rồng nhỏ, tượng trưng cho Đất, vai đeo
một túi “bán nguyệt“ có hình nửa vầng trăng, tượng trưng cho Trời, tay
cầm chiếc quạt giấy màu nâu khắc cụp, khắc xòe theo khẩu lệnh của ác
ông “Xướng“ và “Xuất“, tượng trưng cho một loại vũ khí có ức biến ảo
khôn lường. Tất cả hoà quyện trong vai diễn Phù Giá làm nổi rõ sức mạnh
vô địch khi người chiến binh được thấm nhuần hào khí thiêng của đất
trời quê hương và được trang bị thích hợp.






Các ông Hiệu, đội Phù giá, ông
Hổ, làng áo đỏ, làng áo đen… lần lượt xuất hiện trong tiếng hò reo
tưng bừng của nhân dân và du khách. Những bước chân chạy rầm rập của
đội phù giá cả trăm người đóng khố, cởi trần, tượng trưng cho một loại
vũ khí có sức biến ảo khôn lường, tạo cho du khách cảm giác về một
không gian cổ xưa vô cùng độc đáo và oai hùng.

Ông “Hiệu” chiêng vừa đi vừa hành lễ và đánh chiêng rất uy nghi.


Đi đầu là phường Áo đỏ mặc áo dài sặc
sỡ, tay cầm roi mây, hai ông hiệu Tiểu cổ và phường Áo đen mang cờ ngũ
hành, cờ phướn nối tiếp. Kế đó là ông Hổ dẫn đầu phường ca vũ Ải Lao,
rồi đến các ông hiệu Chiêng, hiệu Trống, hiệu Trung Quân.


Dẫn đầu đoàn rước là đội trinh sát nhỏ tuổi tiến về khu vực tái diễn trận chiến với giặc Ân.

Ông hiệu Cờ vác cờ lệnh đi sau cùng đội
quân Phù giá tháp tùng xe Long mã là một ngựa trắng cỡ lớn, có đủ yên
cương, bành, giáp, nhạc đặt trên khung xe có 4 bánh gỗ và dây kéo
dài. Xe Long mã là biểu tượng linh thiêng nhất của lễ hội, tượng
trưng cho Thánh Gióng trên đường ra trận. Khi tới trận địa, đại quân
của Thánh Gióng giao chiến với quân giặc được hình tượng hóa qua ba
màn múa “đánh cờ” hết sức độc đáo của ông hiệu Cờ.

Đoàn rước dài hơn 3km trên đê sông Đuống.

Đông đảo du khách thập phương tới dự lễ hội Gióng
Sau khi thực hiện những nghi lễ
tại đền Gióng, trận đánh bắt đầu với cuộc “trường trinh” dài hơn 2km
dọc theo đê làng Phù Đổng để đánh trận đầu tiên tại Đống Đàm, tượng
trưng cho trận địa của giặc Ân. Những nhịp hô vang “Reo nào” của đội
phù giá, làng áo xanh, làng áo đỏ làm vang động cả một góc trời Phù
Đổng. Tiếng bước chân của đội quân rầm rập chạy trước, ngựa gỗ khổng
lồ được kéo theo sau tạo ra một cảnh tượng chiến trận hào hùng thời xa
xưa.

Các “Cô Tướng“ tượng trưng các đạo quân xâm lược

28 cô gái trẻ đóng vai tướng giặc tượng trưng cho 28 đạo quân xâm lược nhà Ân.



Cô Tướng duyệt binh.

Trong lễ hội có 28 cô gái trẻ đóng vai
tứng giặc, tượng trưng cho 28 đạo quân xâm lược nhà Ân. Chọn phái đẹp
đóng vai tướng giặc. Còn các màn rước lễ “Kén tướng“, “Kén Phù Giá“, và
màn diễn “Săn hổ, bắt hổ, giúp hổ hoá thân“, có thể suy ngẫm về quan
điểm thảm mỹ và đạo lý ứng xử truyền thống v.v … Lễ hội Gióng Phù Đổng
cũng có nhiều màn hát Chèo để mừng thắng trận.
Điểm nhấn quan trọng của Hội Gióng là
hai hội trận ở bãi Đống Đàm và Soi Bia. Cả hai hội trận tập trung tái
hiện hình ảnh uy lẫm của đội quân Thánh Gióng xuất quân đánh giặc Ân và
giành chiến thắng.

Khi tới trận địa, đại quân của Thánh
Gióng giao chiến với quân giặc được hình tượng hóa qua ba ván múa cờ
độc đáo của ông hiệu cờ. Ván cờ thứ ba kết thúc, quân ta giành chiến
thắng.

Hai hội trận ở bãi Đống Đàm và Soi Bia.

Phút nghỉ ngơi trước giờ xuất trận của Thánh Gióng.
Hàng vạn du khách nhích theo mỗi
bước chân của đội quân xuất trận, tràn cả xuống sườn đê để được theo
sau cuộc “trường trinh” của Thánh gióng. Tại bãi Đống Đàm, 28 nữ tướng giặc dàn trận và giao chiến ác liệt với đội quân của Thánh Gióng.

Sau khi đánh trận Đống Đàm, đội
quân của ông Gióng tạm thời rút lui. Quân giặc thấy vậy tưởng quân ta
thất trận nên hùng hổ đuổi theo.
Hàng vạn người xem dân làng diễn trò vây bắt hổ biểu hiện sức mạnh của đội quân Thánh Gióng.
Tái hiện hình ảnh Ông Hổ
Sau khi khao quân, đội quân của
ông Gióng chặn đứng quân giặc bằng trận đánh Soi Bia khiến chúng bạt
vía. Trong trận này, roi sắt gãy, ông Gióng phải dùng tre đằng ngà,
một vũ khí tượng trưng sức mạnh nội lực của dân tộc. Với chiến thắng
huy hoàng của ông Gióng, trận Soi Bia là chiếc bia soi muôn đời đối
với những kẻ nào muốn nhòm ngó đất nước ta.

Mỗi màn đánh trận của ông Gióng đều hút hồn du khách.
Trận đánh chính hội Gióng Phù
Đổng là một màn phối hợp giữa các nghi lễ cổ xưa cùng các tích trận
được dàn dựng công phu mang đậm dấu ấn văn hóa dân tộc Việt với các
giá trị nghệ thuật đặc sắc đã một lần nữa khẳng dịnh sức mạnh đoàn kết
và chiến thắng muôn đời của dân tộc Việt Nam trước giặc ngoại xâm có ý
định lăm le xâm phạm bờ cõi của cha ông.


Phần Hội Gióng được tái hiện phục vụ quan khách.
Một trong những phần được chờ đón
nhất trong buổi lễ chính là phần hội kéo dài khoảng 30 phút tái hiện lại
những nghi thức truyền thống cơ bản và tinh hoa nhất của Hội Gióng
gồm: múa cờ, cướp chiếu và kéo chữ với sự tham gia trực tiếp của nhân
dân làng Phù Đổng.

Tái hiện nhiều trò đặc sắc chỉ có trong hội Gióng.
Hàng trăm người từ các chú Tiểu Cổ tuổi
dưới 11 tới 28 cô tướng đóng vai tướng giặc Ân tuổi không quá 13, đội
quân Phù Giá (72 người - đội quân cận vệ hay ngự lâm), các phường Áo Đỏ
(100 em thiếu nhi tuổi từ 11-15), Áo Đen (48 người thanh niên tuổi
18-25), phường Ải Lao (đội ca múa người Lào - một cống phẩm của nước Ai
Lao (Lào) được tập trung để dàn trận.

Hai mươi tám cô gái trẻ đóng vai tướng
giặc tượng trưng cho hai mươi tám tướng xâm lược nhà Ân, hàng trăm
các cụ bô lão, lực điền và các em thiếu nhi trong trang phục lễ hội
truyền thống đã tái hiện lại toàn bộ một không gian nghệ thuật đậm
tính văn hóa lịch sử dân tộc theo truyền thuyết Thánh Gióng một cách
hoành tráng để lại dấu ấn sâu đậm trong cảm xúc của bạn bè quốc tế.

Từ người già

Đến trẻ em
Hội Gióng như là một kịch trường dân
gian rộng lớn với hàng trăm vai diễn tiến hành theo một kịch bản đã
được chuẩn hoá. Cũng như các đạo cụ, y phục, mỗi một vai diễn đều chứa
đựng những ý nghĩa hết sức sâu sắc.

Sau màn múa cờ của các ông Hiệu…
Màn “đánh cờ” thứ ba kết thúc cũng đồng nghĩa quân ta đã thắng lợi, các tướng giặc rời kiệu xin hàng..
Garco Dragon Hotel 765A Nguyễn Văn Linh, Q.Long Biên là một trong những khách sạn tại hà nội phù hợp với bạn.

Với
kiến trúc mang phong cách Pháp cổ điển xen lẫn trang thiết bị phòng
khách hiện đại, cùng đội ngũ nhân viên am hiểu địa phương, chuyên nghiệp
và tận tình luôn sẵn sàng chào đón và phục vụ Quý khách.
Garco Dragon Hotel nằm ngay cạnh Tổng công ty May 10, giữa khu công nghiệp Sài đồng, khu công nghiệp Đài tư, cách khu đô thị Việt Hưng và khu đô thị Vincom Village chỉ 10 phút lái xe, hay cách trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội chỉ 2km.. thực sự là một điểm dừng chân nghỉ ngơi lý tưởng và phù hợp cho Quý khách khi đến làm việc tại địa bàn quận Long Biên, Gia Lâm và các vùng lân cận.
Tên thường gọi: Chùa Kiến Sơ Chùa tọa lạc tại thôn Phù Đổng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa do nhà sư Lập Đức dựng trước năm 820. Đến năm 820, Thiền sư Vô Ngôn Thông – đệ tử đắc pháp của Tổ Bá Trượng – từ Quảng Châu, Trung Quốc sang nước ta, được nhà sư Lập Đức tôn làm thầy, mời ở lại trụ trì chùa Kiến Sơ. Nhà sư được thầy truyền pháp và đổi tên là Cảm Thành. Từ đấy, chùa trở thành trung tâm của Thiền phái Vô Ngôn Thông.
Hệ truyền thừa Thiền phái Vô Ngôn Thông gồm 17 thế hệ. Một số thiền sư tiêu biểu là: Vô Ngôn Thông (mất năm 826), Cảm Thành (mất năm 860), Thiện Hội (mất năm 900), Vân Phong (mất năm 959), Khuông Việt Chân Lưu (mất năm 1011), Đa Bảo, Định Hương (mất 1051), Viên Chiếu (mất 1090), Thông Biện (mất 1134), Mãn Giác (mất 1096) v.v…
Ở hai dãy tả hữu Tam bảo của chùa hiện nay có thờ tượng Thiền sư Vô Ngôn Thông, tượng Lý Công Uẩn và thân mẫu của ông v.v...
Đây là ngôi chùa cổ danh tiếng có từ trước thế kỷ X ở nước ta. Chính Lý Công Uẩn hay lui tới chùa, nên khi lên làm vua là Lý Thái Tổ (1010 – 1028), nhà vua thường thỉnh Thiền sư Đa Bảo vào cung thưa hỏi yếu chỉ Thiền. Vua đã xuống chiếu trùng tu chùa. Chùa lúc bấy giờ có hơn một trăm tăng đồ.
Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Di tích cổ còn rất ít. Chùa còn giữ chiếc khánh đá bề ngang 2,3m, cao 0,60m, dày 0,17m.
Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1975.
Đậu mềm, tương dịu ngọt, bánh đúc không mỡ màng nên dễ ăn và không ngán. Cái món quà ấy mà ăn vào một buổi trưa hè thì có khác gì người hiện đại uống một ly trà mát lạnh. Đến bây giờ, bánh đúc vẫn còn bán nhưng rất hiếm và có lẽ cái hương vị ngày nào của nó cũng không còn nguyên vẹn. Vậy nên món quà quê thơm ngon ấy mãi còn là những dư vị khó quên của một thời, một đời.
Garco Dragon Hotel nằm ngay cạnh Tổng công ty May 10, giữa khu công nghiệp Sài đồng, khu công nghiệp Đài tư, cách khu đô thị Việt Hưng và khu đô thị Vincom Village chỉ 10 phút lái xe, hay cách trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội chỉ 2km.. thực sự là một điểm dừng chân nghỉ ngơi lý tưởng và phù hợp cho Quý khách khi đến làm việc tại địa bàn quận Long Biên, Gia Lâm và các vùng lân cận.
Chùa Kiến Sơ là điểm đến tiếp theo


Mặt tiền chùa và Trụ thiên đài
Toàn cảnh chùa (ao miệng rồng)
Tượng thân mẫu Lý Công Uẩn
Tượng thiền sư Vô Ngôn Thông



Tên thường gọi: Chùa Kiến Sơ Chùa tọa lạc tại thôn Phù Đổng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa do nhà sư Lập Đức dựng trước năm 820. Đến năm 820, Thiền sư Vô Ngôn Thông – đệ tử đắc pháp của Tổ Bá Trượng – từ Quảng Châu, Trung Quốc sang nước ta, được nhà sư Lập Đức tôn làm thầy, mời ở lại trụ trì chùa Kiến Sơ. Nhà sư được thầy truyền pháp và đổi tên là Cảm Thành. Từ đấy, chùa trở thành trung tâm của Thiền phái Vô Ngôn Thông.
Hệ truyền thừa Thiền phái Vô Ngôn Thông gồm 17 thế hệ. Một số thiền sư tiêu biểu là: Vô Ngôn Thông (mất năm 826), Cảm Thành (mất năm 860), Thiện Hội (mất năm 900), Vân Phong (mất năm 959), Khuông Việt Chân Lưu (mất năm 1011), Đa Bảo, Định Hương (mất 1051), Viên Chiếu (mất 1090), Thông Biện (mất 1134), Mãn Giác (mất 1096) v.v…
Ở hai dãy tả hữu Tam bảo của chùa hiện nay có thờ tượng Thiền sư Vô Ngôn Thông, tượng Lý Công Uẩn và thân mẫu của ông v.v...
Đây là ngôi chùa cổ danh tiếng có từ trước thế kỷ X ở nước ta. Chính Lý Công Uẩn hay lui tới chùa, nên khi lên làm vua là Lý Thái Tổ (1010 – 1028), nhà vua thường thỉnh Thiền sư Đa Bảo vào cung thưa hỏi yếu chỉ Thiền. Vua đã xuống chiếu trùng tu chùa. Chùa lúc bấy giờ có hơn một trăm tăng đồ.
Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Di tích cổ còn rất ít. Chùa còn giữ chiếc khánh đá bề ngang 2,3m, cao 0,60m, dày 0,17m.
Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1975.
Cùng thưởng thức bánh đúc của người Hà Nội
Cuộc
sống hiện đại ngày càng bận rộn, chúng ta đã có thể ăn Hamburger thay
cơm thì việc người ta quên một số món ăn dân dã truyền thống như đánh
đúc cũng hoàn toàn bình thường. Nhưng trong nỗi nhớ của người Hà Nội,
bánh đúc vẫn là một món ăn rất gần gũi và thân quen.
Các
bạn trẻ hiện nay nghe đến bánh đúc cứ ngỡ nó là món quê nhà nhưng trong
Miếng ngon Hà Nội của Vũ Bằng thì bánh đúc được nhà văn dành cho những
lời tán tụng hết mực. Những người lớn tuổi hơn một chút thì nhớ dư vị
bánh đúc trong tiếc nuối “Giờ khó kiếm được bánh đúc mà ăn”.
Bánh đúc có lẽ là món ăn có nguyên liệu đơn giản nhất. Không thấy có chuyện tích nào về bánh đúc nhưng dân gian xưa đã có câu “Bánh đúc, cá kho bán bò trả nợ”. Chắc chắn loại bánh được làm từ hạt gạo với cung cách hết sức giản đơn này có từ rất sớm. Bao đời qua vẫn không ai cách tân hình dáng, cách làm, cách ăn bánh đúc. Tất cả vẫn cứ như ngàn xưa, mộc mạc, giản dị. Mà cũng khó có thể kể ra loại bánh nào rẻ hơn bánh đúc. Bánh đúc đơn giản là thế nhưng dưới gu ẩm thực đa dạng của người Hà Nội thì lại có rất nhiều cách để thưởng thức. Phổ biến nhất là ăn bánh đúc với nộm, ăn bánh đúc với nham, bánh đúc chấm tương và bánh đúc hành mỡ. Mỗi loại lại có một cái thú riêng mà ai đã một lần ăn thì khó lòng quên.
Bánh đúc có lẽ là món ăn có nguyên liệu đơn giản nhất. Không thấy có chuyện tích nào về bánh đúc nhưng dân gian xưa đã có câu “Bánh đúc, cá kho bán bò trả nợ”. Chắc chắn loại bánh được làm từ hạt gạo với cung cách hết sức giản đơn này có từ rất sớm. Bao đời qua vẫn không ai cách tân hình dáng, cách làm, cách ăn bánh đúc. Tất cả vẫn cứ như ngàn xưa, mộc mạc, giản dị. Mà cũng khó có thể kể ra loại bánh nào rẻ hơn bánh đúc. Bánh đúc đơn giản là thế nhưng dưới gu ẩm thực đa dạng của người Hà Nội thì lại có rất nhiều cách để thưởng thức. Phổ biến nhất là ăn bánh đúc với nộm, ăn bánh đúc với nham, bánh đúc chấm tương và bánh đúc hành mỡ. Mỗi loại lại có một cái thú riêng mà ai đã một lần ăn thì khó lòng quên.

Ai
thích thưởng thức trọn vẹn cái mát “dịu dàng, thơm tho, bát ngát như
hít hà cả hương thơm của một vườn rau xanh vào lòng” thì hãy chọn cho
mình bánh đúc ăn kèm với nộm. Miếng bánh bóng, giòn lại thoang thoảng
mùi thơm của giá trần, của vừng rang, của chanh cốm thì còn gì bằng.
Thêm một ít rau ghém, một tí chuối non thái nhỏ để món ăn phảng phất mùi
ngan ngát. Mấy thứ nguyên liệu đồng quê đơn giản vậy thôi mà đã làm
thành một món ăn say lòng người thành phố. Người Hà Nội đặc biệt thích
món bánh đúc nộm này.
Bánh đúc nham cũng gần giống bánh đúc nộm nhưng ngấy hơn một chút. Có khác là ở chỗ người ta thay giá trần bằng hoa chuối bao tử thái nhỏ, gia giảm thêm một tí mắm chưng. Án bánh đúc theo cách này lại được thưởng thức cái cảm giác nhẹ nhõm, lâng lâng.
Bánh đúc mỡ hành được ăn kèm với đậu rán để nguội, chấm một thứ nước mắm chua dầm ớt. Nếu thiếu đậu có thể thay bằng thịt quay hoặc chả lợn. Tuỳ theo sở thích từng người mà có thể ăn nóng hoặc nguội nhưng cái độ ngậy thì ăn kiểu gì vẫn cứ vẹn nguyên. Nhưng có lẽ được chuộng nhất là bánh đúc chấm tương. Món này vừa ngon lại vừa rẻ tiền, mà cũng thể hiện được rõ nhất cái nét chân quê mộc mạc của thứ quà bánh dân dã. Cứ một đĩa bánh đúc, một bát tương là ngồi xì xụp, thấy đời thật đơn giản. Ai thích ăn cay thì dầm thêm tí ớt cho nổi vị hoặc muốn đậm đà hơn thì thêm miếng đậu phụ nguội xé nhỏ.
Bánh đúc nham cũng gần giống bánh đúc nộm nhưng ngấy hơn một chút. Có khác là ở chỗ người ta thay giá trần bằng hoa chuối bao tử thái nhỏ, gia giảm thêm một tí mắm chưng. Án bánh đúc theo cách này lại được thưởng thức cái cảm giác nhẹ nhõm, lâng lâng.
Bánh đúc mỡ hành được ăn kèm với đậu rán để nguội, chấm một thứ nước mắm chua dầm ớt. Nếu thiếu đậu có thể thay bằng thịt quay hoặc chả lợn. Tuỳ theo sở thích từng người mà có thể ăn nóng hoặc nguội nhưng cái độ ngậy thì ăn kiểu gì vẫn cứ vẹn nguyên. Nhưng có lẽ được chuộng nhất là bánh đúc chấm tương. Món này vừa ngon lại vừa rẻ tiền, mà cũng thể hiện được rõ nhất cái nét chân quê mộc mạc của thứ quà bánh dân dã. Cứ một đĩa bánh đúc, một bát tương là ngồi xì xụp, thấy đời thật đơn giản. Ai thích ăn cay thì dầm thêm tí ớt cho nổi vị hoặc muốn đậm đà hơn thì thêm miếng đậu phụ nguội xé nhỏ.

Đậu mềm, tương dịu ngọt, bánh đúc không mỡ màng nên dễ ăn và không ngán. Cái món quà ấy mà ăn vào một buổi trưa hè thì có khác gì người hiện đại uống một ly trà mát lạnh. Đến bây giờ, bánh đúc vẫn còn bán nhưng rất hiếm và có lẽ cái hương vị ngày nào của nó cũng không còn nguyên vẹn. Vậy nên món quà quê thơm ngon ấy mãi còn là những dư vị khó quên của một thời, một đời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét