Lễ hội Chùa Trăm Gian

Chùa Trăm Gian thuộc tỉnh Hà Tây là một trong những ngôi chùa cổ nổi
tiếng vào bậc nhất ở Việt Nam, được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di
tích Lịch sử-Văn hóa quốc gia.
Lịch sử và kiến trúc chùa Trăm Gian
Chùa Trăm Gian còn có tên gọi khác là chùa Quảng Nghiêm, chùa Tiên Lữ, chùa Núi, vì ở xóm Núi, thôn Tiên Lữ thuộc xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, Hà Tây. Chùa được lập từ đời Lý Cao Tông, niên hiệu Trịnh Phù thứ 10 (1185) trên một quả đồi cao khoảng 50m, có tên là núi Mã, xung quanh có nhiều cây cổ thụ che rợp mặt đồi.
Chùa Trăm Gian là một quần thể kiến trúc độc đáo. Theo cách tính cứ 4 góc cột là một gian chùa có tất cả 104 gian nhà, chia thành ba cụm kiến trúc chính.
Cụm thứ nhất gồm 4 cột trụ và 2 quán, trước đây là nơi đánh cờ người trong ngày hội, tiếp đó là nhà Giá Ngự nhìn ra mặt hồ sen, nơi đặt kiệu thánh để xem trò múa rối nước.
Cụm thứ hai gồm một tòa gác chuông 2 tầng tám mái dựng năm 1693, các ván bằng đều có chạm hình mây hoa. Tại đây treo một quả chuông cao 1,1m, đường kính 0,6m, đúc năm Cảnh Thịnh thứ hai, 1794. Trên chuông có khắc một bài minh của Phạm Huy ích.
Cụm thứ ba là chùa chính, gồm nhà Bái đường, tòa Thiêu hương và Thượng điện. Hai bên là 2 dãy hành lang. Trong cùng là nhà thờ tổ, giữa có Lầu trống bên trong treo một trống lớn, đường kính 1m và một khánh đồng dài 1,2m, cao 0,6m đúc năm 1749.
Trong chùa có 153 pho tượng, hầu hết bằng gỗ, một số ít bằng đất nung, đặc biệt quý là tượng Tuyết Sơn, tượng Quan Thế Âm Bồ Tát. Ngoài ra còn có nhiều bia, hoành phi, câu đối... Riêng có hai câu đối khảm trai, tương truyền có từ thời nhà Hồ (1400-1406).
Về mặt lịch sử, trong chùa có pho tượng đô đốc Đặng Tiến Đông, một tướng lĩnh nhà Tây Sơn, chỉ huy đạo quân đánh vào phía nam Thăng Long tạo nên sự thất bại thảm hại của quân xâm lược nhà Thanh, giải phóng Thăng Long vào ngày mùng 5 tết Kỷ Dậu (1789). Tượng được phát hiện vào năm 1972.
Ngoài ra còn có tượng Đức Thánh Bối đặt trong khám gỗ gian bên phải. Đây là tượng cốt rút bằng mây đan ngoài bọc vải sơn, tương truyền là tượng bỏ hài cốt của ông.
Lễ hội chùa Trăm Gian
Ỏ chùa Trăm Gian, Phật giáo đã hòa nhập với tín ngưỡng địa phương nên Chùa còn thờ cả Thánh. Hội chùa Trăm gian kỷ niệm đức Thánh Nguyễn Bình An, trụ trì chùa Trăm Gian vào cuối đời Trần, là người đón thợ khéo về mở rộng cảnh chùa.
Lễ hội chùa Trăm Gian được tổ chức từ ngày mùng 4 đến mùng 6 tháng Giêng âm lịch. Trong hội có rước kiệu thánh, thi cỗ chay, trình rối cạn; ngoài ra còn có các trò vui như đánh cờ người, đấu vật, múa rối nước. Vào trước ngày hội, làng có dán bảng giấy hội ở nhiều nơi để mời khách thập phương về dự.
Ngày mùng 4, bắt đầu vào giờ Thìn (từ 7-9 giờ sáng) các chân kiệu bắt đầu rước long kiệu từ trong chùa bước ra, long kiệu ra tới cửa Trung quan, đám rước phải đứng lại, chờ quan viên và các chân kiệu của xã giao hiếu (kết nghĩa) và đứng vào hàng ngũ chỉnh tề, đám rước mới bắt đầu di chuyển.
Trong đám rước, xã đàn anh đi đầu, xã này thường là xã thờ thần sớm nhất, có đông dân nhất, đồng thời cũng là xã đa tài nhất. Các xã bạn cũng phái kiệu của mình tới hoặc phái một chân kiệu để thay vai khiêng kiệu cùng với xã chủ nhà.
Đi đầu là hai lá cờ “Tiết Mao,” tiếp đến là 5 cờ đuôi nheo gọi là cờ ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ và những lá cờ vuông: đen, trắng, vàng, đỏ, xanh... Sau đó là 4 lá cờ tứ linh: Long, Ly, Quy, Phượng. Người cầm cờ đội nón có chóp nhọn hoặc chít khăn tai chó, thắt lưng bó que xanh đỏ, chân đi xà cạp.
Sau cờ là trống cái và chiêng đều có người khiêng và lọng che. Trống cái do Thủ hiệu đánh bằng chiếc dùi sơn son thếp vàng. Khi đi rước, Thủ hiệu đánh một tiếng trống, lại đánh một tiếng chiêng. Tiếng trống thúc giục, tiếng chiêng trầm hùng, ngân nga như tiếng của ngàn xưa vọng về.
Sau đoàn trống và chiêng là sự diễu hành của đôi ngựa bạch, đôi ngựa hồng và đôi voi. Dưới chân những con vật linh thiêng này có những bánh xe lăn. Mỗi con vật đều được che lọng và có một chiến binh đi bên cạnh...
Hai chiếc tán thêu Long, Phượng đi trước mở đường cho các chấp kích lang nai nịt, mang lộ bộ, kim qua, phủ việt, chùy đồng... Đi hai bên là những chàng trai dũng cảm, xông pha trận mạc khi xưa, ở giữa họ là một quan viên mặc áo thụng xanh, có lọng che, mang một chiếc biển có phủ vải đỏ ghi dòng chữ: “Thượng đẳng tối linh thần” (thánh tối linh hạng nhất).
Sau đó, một ông già có dáng tiên phong đạo cốt, mặc áo thụng độ màu tía, vái lá cờ “vía”. Cờ bằng vóc đỏ viền vàng có thêu chữ “Lệnh”. Lá cờ này cũng được lọng che. Đó là lệnh của thần linh. Thỉnh thoảng cờ lệnh được phất lên dồn dập, nhắc lại thời chinh chiến oai hùng của thần.
Ngay sau đó là màn gươm tuốt trần do ba người điều khiển. Đến Phường bát âm gồm 8 nhạc cụ, phát ra từ 8 hệ thống âm thanh của 8 vật liệu khác nhau thường có mấy điệu Lưu Thủy, Hành Vân, Ngũ Đối trong suốt cuộc rước.
Sau phường bát âm là Long đình có 4 người khiêng, trong bày hương án, ngũ quả đỉnh trầm và bát hương có cắm những nén hương đang cháy nghi ngút. Hai bên Long đình có tàn, quạt, lọng. Đoàn rước Long đình gồm những chàng trai ăn mặc theo kiểu khố bao khăn vắt, quần áo có nẹp xanh đỏ, bó xà cạp đen, người cầm cờ, người cầm trống khẩu và cầm cảnh. Thỉnh thoảng họ lại đánh lên một hồi trống và một hồi cảnh.
Tiếp đến là hai Long kiệu bát cống của Đức Thánh ông và Đức Thánh bà. Những người khiêng kiệu, đầu chít khăn xanh, mặc quần xanh, thắt lưng bao vàng, đi ủng. Các bô lão, các quan viên đi hộ giá kiệu đều mặc áo thụng, khăn xếp...

Nét cổ kính của Chùa Trăm gian
Không khí tưng bừng náo nhiệt, hương khói mù mịt, tiếng chiêng
trống, đàn sáo nổi lên làm cho mọi người như say rượu. Thỉnh thoảng,
những chàng trai khiêng kiệu lại đi nhanh, tăng tốc độ và reo vang lên.
Lúc này người ta gọi là kiệu bay... Đám rước đi vòng quanh xóm chùa rồi
trở về chùa và bắt đầu có những cuộc tế lễ.
Sau khi đám rước ngừng lại trước cổng chùa, người ta tổ chức các cuộc vui chơi, mở hội. Có phường hát Rô ở Quốc Oai đến, phường chèo Tàu từ Đan Phượng sang. Có cả đặc sản “Xẩm chợ” Hà Đông.
Chùa Trăm Gian là một trong những ngôi chùa cổ nhất miền Bắc Việt Nam. Mở hội ở chùa là hình thức tổ chức sớm hơn kiểu tổ chức ở đình. Do vậy, lễ hội chùa Trăm Gian còn vọng lại nhiều âm thanh và màu sắc điển hình của một quá khứ xa xưa với những nét hùng tráng mang tính nghệ thuật độc đáo của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử và kiến trúc chùa Trăm Gian
Chùa Trăm Gian còn có tên gọi khác là chùa Quảng Nghiêm, chùa Tiên Lữ, chùa Núi, vì ở xóm Núi, thôn Tiên Lữ thuộc xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, Hà Tây. Chùa được lập từ đời Lý Cao Tông, niên hiệu Trịnh Phù thứ 10 (1185) trên một quả đồi cao khoảng 50m, có tên là núi Mã, xung quanh có nhiều cây cổ thụ che rợp mặt đồi.
Chùa Trăm Gian là một quần thể kiến trúc độc đáo. Theo cách tính cứ 4 góc cột là một gian chùa có tất cả 104 gian nhà, chia thành ba cụm kiến trúc chính.
Cụm thứ nhất gồm 4 cột trụ và 2 quán, trước đây là nơi đánh cờ người trong ngày hội, tiếp đó là nhà Giá Ngự nhìn ra mặt hồ sen, nơi đặt kiệu thánh để xem trò múa rối nước.
Cụm thứ hai gồm một tòa gác chuông 2 tầng tám mái dựng năm 1693, các ván bằng đều có chạm hình mây hoa. Tại đây treo một quả chuông cao 1,1m, đường kính 0,6m, đúc năm Cảnh Thịnh thứ hai, 1794. Trên chuông có khắc một bài minh của Phạm Huy ích.
Cụm thứ ba là chùa chính, gồm nhà Bái đường, tòa Thiêu hương và Thượng điện. Hai bên là 2 dãy hành lang. Trong cùng là nhà thờ tổ, giữa có Lầu trống bên trong treo một trống lớn, đường kính 1m và một khánh đồng dài 1,2m, cao 0,6m đúc năm 1749.
Trong chùa có 153 pho tượng, hầu hết bằng gỗ, một số ít bằng đất nung, đặc biệt quý là tượng Tuyết Sơn, tượng Quan Thế Âm Bồ Tát. Ngoài ra còn có nhiều bia, hoành phi, câu đối... Riêng có hai câu đối khảm trai, tương truyền có từ thời nhà Hồ (1400-1406).
Về mặt lịch sử, trong chùa có pho tượng đô đốc Đặng Tiến Đông, một tướng lĩnh nhà Tây Sơn, chỉ huy đạo quân đánh vào phía nam Thăng Long tạo nên sự thất bại thảm hại của quân xâm lược nhà Thanh, giải phóng Thăng Long vào ngày mùng 5 tết Kỷ Dậu (1789). Tượng được phát hiện vào năm 1972.
Ngoài ra còn có tượng Đức Thánh Bối đặt trong khám gỗ gian bên phải. Đây là tượng cốt rút bằng mây đan ngoài bọc vải sơn, tương truyền là tượng bỏ hài cốt của ông.
Lễ hội chùa Trăm Gian
Ỏ chùa Trăm Gian, Phật giáo đã hòa nhập với tín ngưỡng địa phương nên Chùa còn thờ cả Thánh. Hội chùa Trăm gian kỷ niệm đức Thánh Nguyễn Bình An, trụ trì chùa Trăm Gian vào cuối đời Trần, là người đón thợ khéo về mở rộng cảnh chùa.
Lễ hội chùa Trăm Gian được tổ chức từ ngày mùng 4 đến mùng 6 tháng Giêng âm lịch. Trong hội có rước kiệu thánh, thi cỗ chay, trình rối cạn; ngoài ra còn có các trò vui như đánh cờ người, đấu vật, múa rối nước. Vào trước ngày hội, làng có dán bảng giấy hội ở nhiều nơi để mời khách thập phương về dự.
Ngày mùng 4, bắt đầu vào giờ Thìn (từ 7-9 giờ sáng) các chân kiệu bắt đầu rước long kiệu từ trong chùa bước ra, long kiệu ra tới cửa Trung quan, đám rước phải đứng lại, chờ quan viên và các chân kiệu của xã giao hiếu (kết nghĩa) và đứng vào hàng ngũ chỉnh tề, đám rước mới bắt đầu di chuyển.
Trong đám rước, xã đàn anh đi đầu, xã này thường là xã thờ thần sớm nhất, có đông dân nhất, đồng thời cũng là xã đa tài nhất. Các xã bạn cũng phái kiệu của mình tới hoặc phái một chân kiệu để thay vai khiêng kiệu cùng với xã chủ nhà.
Đi đầu là hai lá cờ “Tiết Mao,” tiếp đến là 5 cờ đuôi nheo gọi là cờ ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ và những lá cờ vuông: đen, trắng, vàng, đỏ, xanh... Sau đó là 4 lá cờ tứ linh: Long, Ly, Quy, Phượng. Người cầm cờ đội nón có chóp nhọn hoặc chít khăn tai chó, thắt lưng bó que xanh đỏ, chân đi xà cạp.
Sau cờ là trống cái và chiêng đều có người khiêng và lọng che. Trống cái do Thủ hiệu đánh bằng chiếc dùi sơn son thếp vàng. Khi đi rước, Thủ hiệu đánh một tiếng trống, lại đánh một tiếng chiêng. Tiếng trống thúc giục, tiếng chiêng trầm hùng, ngân nga như tiếng của ngàn xưa vọng về.
Sau đoàn trống và chiêng là sự diễu hành của đôi ngựa bạch, đôi ngựa hồng và đôi voi. Dưới chân những con vật linh thiêng này có những bánh xe lăn. Mỗi con vật đều được che lọng và có một chiến binh đi bên cạnh...
Hai chiếc tán thêu Long, Phượng đi trước mở đường cho các chấp kích lang nai nịt, mang lộ bộ, kim qua, phủ việt, chùy đồng... Đi hai bên là những chàng trai dũng cảm, xông pha trận mạc khi xưa, ở giữa họ là một quan viên mặc áo thụng xanh, có lọng che, mang một chiếc biển có phủ vải đỏ ghi dòng chữ: “Thượng đẳng tối linh thần” (thánh tối linh hạng nhất).
Sau đó, một ông già có dáng tiên phong đạo cốt, mặc áo thụng độ màu tía, vái lá cờ “vía”. Cờ bằng vóc đỏ viền vàng có thêu chữ “Lệnh”. Lá cờ này cũng được lọng che. Đó là lệnh của thần linh. Thỉnh thoảng cờ lệnh được phất lên dồn dập, nhắc lại thời chinh chiến oai hùng của thần.
Ngay sau đó là màn gươm tuốt trần do ba người điều khiển. Đến Phường bát âm gồm 8 nhạc cụ, phát ra từ 8 hệ thống âm thanh của 8 vật liệu khác nhau thường có mấy điệu Lưu Thủy, Hành Vân, Ngũ Đối trong suốt cuộc rước.
Sau phường bát âm là Long đình có 4 người khiêng, trong bày hương án, ngũ quả đỉnh trầm và bát hương có cắm những nén hương đang cháy nghi ngút. Hai bên Long đình có tàn, quạt, lọng. Đoàn rước Long đình gồm những chàng trai ăn mặc theo kiểu khố bao khăn vắt, quần áo có nẹp xanh đỏ, bó xà cạp đen, người cầm cờ, người cầm trống khẩu và cầm cảnh. Thỉnh thoảng họ lại đánh lên một hồi trống và một hồi cảnh.
Tiếp đến là hai Long kiệu bát cống của Đức Thánh ông và Đức Thánh bà. Những người khiêng kiệu, đầu chít khăn xanh, mặc quần xanh, thắt lưng bao vàng, đi ủng. Các bô lão, các quan viên đi hộ giá kiệu đều mặc áo thụng, khăn xếp...

Nét cổ kính của Chùa Trăm gian
Sau khi đám rước ngừng lại trước cổng chùa, người ta tổ chức các cuộc vui chơi, mở hội. Có phường hát Rô ở Quốc Oai đến, phường chèo Tàu từ Đan Phượng sang. Có cả đặc sản “Xẩm chợ” Hà Đông.
Chùa Trăm Gian là một trong những ngôi chùa cổ nhất miền Bắc Việt Nam. Mở hội ở chùa là hình thức tổ chức sớm hơn kiểu tổ chức ở đình. Do vậy, lễ hội chùa Trăm Gian còn vọng lại nhiều âm thanh và màu sắc điển hình của một quá khứ xa xưa với những nét hùng tráng mang tính nghệ thuật độc đáo của dân tộc Việt Nam.
Chùa Quảng Nghiêm

Chùa được lập từ đời Lý Cao Tông nhà Lý, niên hiệu Trinh Phù thứ 10,
1185. Đến thời nhà Trần, có hòa thượng Bình An, quê ở Bối Khê tu ở đây,
tương truyền là người có nhiều phép lạ. Sau khi ông mất, dân làng xây
tháp để giữ gìn hài cốt và tôn gọi là Đức Thánh Bối. Ngôi chùa lớn với
quy mô như hiện nay là đã được trùng tu và xây dựng thêm qua nhiều thời
đại.
Ở sân chùa có gác chuông hai tầng tám mái được dựng vào năm Quý Dậu 1693, niên hiệu Chính Hòa, đời Lê Hy Tông, là một công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao. Chùa còn giữ được nhiều di vật và tượng quý. Trăm gian, cái tên rất bình dân, dường như muốn nói lên vẻ bề thế của ngôi chùa. Truyền thuyết kể rằng vào thời nhà Trần, ở làng Bối Khê có một người phụ nữ nằm mộng thấy đức Phật giáng sinh, rồi có mang, sinh ra đứa con trai. Năm lên 9 tuổi, sau khi bố mẹ mất, người con trai ấy bỏ nhà vào tu ở chùa Đại Bi trong làng. Lên 15 tuổi, đến thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, (huyện Chương Mỹ , Hà Nội ngày nay), thấy cảnh đẹp, người xin yết kiến và theo học kinh kệ với vị trưởng lão tu tại ngôi chùa trên núi. Sau mười năm học đạo, người thanh niên đó hiểu thấu mọi phép linh thông. Vua Trần nghe tiếng, sắc phong là Hòa Thượng, đặt hiệu là Đức Minh rồi mời về tu ở chùa trong kinh đô.
Sau khi vị trưởng lão ở chùa Tiên Lữ viên tịch, Hòa Thượng Đức Minh xin về làng dựng ngôi chùa mới. Năm 95 tuổi, Sư ngồi vào một cái khám gỗ, từ biệt đệ tử rồi siêu thoát. Một trăm ngày sau, đệ tử mở cửa khám, kim quang Sư bay mùi thơm nức, ngào ngạt gần xa. Dân làng và đệ tử xây tháp để gìn giữ kim thân và tôn thờ là đức Thánh Bối.
Hiện nay chùa Trăm Gian thu hút hàng trăm ngàn lượt khách gần xa đền tham quan hàng năm và hiện đang được tu bổ xây dụng lại ao sen , gác chuông và 100 gian chùa để đón tiếp đồng bào gần xa đến tham quan. Chùa Trăm Gian được bộ văn hoá thông tin chứng nhận di tích lịch sử quốc gia. Trụ trì chùa là nhà sư: Nguyễn Thị Chắt.
Chùa Trăm Gian là một quần thể kiến trúc độc đáo. Theo cách tính cứ 4 góc cột là một "gian" thì chùa có cả thảy 104 gian, chia thành 3 cụm kiến trúc chính.
Cụm thứ nhất gồm 4 cột trụ và 2 quán, trước đây là nơi đánh cờ người trong ngày hội, tiếp đó là nhà Giá Ngự nhìn ra mặt hồ sen, nơi đặt kiệu thánh để xem trò múa rối nước.
Trèo qua mấy trăm bậc gạch xây là tới cụm thứ hai gồm một toà gác chuông 2 tầng mái, có lan can chạy quây 4 mặt. Các ván bằng đều có chạm hình mây hoa. Tại đây treo một quả chuông cao 1,10 m, đường kính 0,6 m, đúc năm Cảnh Thịnh thứ hai, 1794. Trên chuông có khắc một bài minh của Phạm Huy Ích. Qua gác chuông, leo 25 bậc đá xanh hình rồng mây, đến sân trên có kê một sập đá hình chữ nhật.
Lại leo 9 bậc đá, hai bên có lan can chạm hình rồng cuộn khúc thế tới cụm thứ 3 đó là chùa chính, gồm nhà bái đường, toà thiêu hương và thượng điện. Hai bên là 2 dãy hành lang. Trong cùng là nhà tổ, giữ lại có lầu trống bên trong treo một cỗ trống lớn, đường kính 1 m và một tấm khánh đồng dài 1,20 m, cao 0,60 m đúc năm 1749, Cảnh Hưng thứ 10 . Tại đây có 153 pho tượng, hầu hết bằng gỗ, một số ít bằng đất nung, đặc biệt quý là tượng Tuyết Sơn, tượng Quan Thế Âm Bồ Tát. Ở giữa thượng điện có một bệ bằng đất nung đỏ hình khối chữ nhật, giống kiểu các bệ đá thời nhà Trần. Trên bệ đá là đài sen, xung quanh trang trí nhiều hình động vật và hoa lá, bón góc có hình chim thần. Trên bệ đặt các tượng Phật tam thế. Trong chùa còn có nhiều bia, hoành phi, câu đối... Riêng có hai câu đối khảm trai, tương truyền có từ thời nhà Hồ (1400-1406).
Trong chùa có tượng đô đốc Đặng Tiến Đông, một tướng lĩnh nhà Tây Sơn, chỉ huy đạo quân đánh vào phía nam Thăng Long. Tượng này được phát hiện vào năm 1972. Ngoài ra còn có tượng Đức Thánh Bối đặt trong khám gỗ gian bên phải. Đây là tượng cốt rút bằng mây đan ngoài bọc vải sơn, tương truyền là tượng bỏ hài cốt của ông.
Ở sân chùa có gác chuông hai tầng tám mái được dựng vào năm Quý Dậu 1693, niên hiệu Chính Hòa, đời Lê Hy Tông, là một công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao. Chùa còn giữ được nhiều di vật và tượng quý. Trăm gian, cái tên rất bình dân, dường như muốn nói lên vẻ bề thế của ngôi chùa. Truyền thuyết kể rằng vào thời nhà Trần, ở làng Bối Khê có một người phụ nữ nằm mộng thấy đức Phật giáng sinh, rồi có mang, sinh ra đứa con trai. Năm lên 9 tuổi, sau khi bố mẹ mất, người con trai ấy bỏ nhà vào tu ở chùa Đại Bi trong làng. Lên 15 tuổi, đến thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, (huyện Chương Mỹ , Hà Nội ngày nay), thấy cảnh đẹp, người xin yết kiến và theo học kinh kệ với vị trưởng lão tu tại ngôi chùa trên núi. Sau mười năm học đạo, người thanh niên đó hiểu thấu mọi phép linh thông. Vua Trần nghe tiếng, sắc phong là Hòa Thượng, đặt hiệu là Đức Minh rồi mời về tu ở chùa trong kinh đô.
Sau khi vị trưởng lão ở chùa Tiên Lữ viên tịch, Hòa Thượng Đức Minh xin về làng dựng ngôi chùa mới. Năm 95 tuổi, Sư ngồi vào một cái khám gỗ, từ biệt đệ tử rồi siêu thoát. Một trăm ngày sau, đệ tử mở cửa khám, kim quang Sư bay mùi thơm nức, ngào ngạt gần xa. Dân làng và đệ tử xây tháp để gìn giữ kim thân và tôn thờ là đức Thánh Bối.
Hiện nay chùa Trăm Gian thu hút hàng trăm ngàn lượt khách gần xa đền tham quan hàng năm và hiện đang được tu bổ xây dụng lại ao sen , gác chuông và 100 gian chùa để đón tiếp đồng bào gần xa đến tham quan. Chùa Trăm Gian được bộ văn hoá thông tin chứng nhận di tích lịch sử quốc gia. Trụ trì chùa là nhà sư: Nguyễn Thị Chắt.
Chùa Trăm Gian là một quần thể kiến trúc độc đáo. Theo cách tính cứ 4 góc cột là một "gian" thì chùa có cả thảy 104 gian, chia thành 3 cụm kiến trúc chính.
Cụm thứ nhất gồm 4 cột trụ và 2 quán, trước đây là nơi đánh cờ người trong ngày hội, tiếp đó là nhà Giá Ngự nhìn ra mặt hồ sen, nơi đặt kiệu thánh để xem trò múa rối nước.
Trèo qua mấy trăm bậc gạch xây là tới cụm thứ hai gồm một toà gác chuông 2 tầng mái, có lan can chạy quây 4 mặt. Các ván bằng đều có chạm hình mây hoa. Tại đây treo một quả chuông cao 1,10 m, đường kính 0,6 m, đúc năm Cảnh Thịnh thứ hai, 1794. Trên chuông có khắc một bài minh của Phạm Huy Ích. Qua gác chuông, leo 25 bậc đá xanh hình rồng mây, đến sân trên có kê một sập đá hình chữ nhật.
Lại leo 9 bậc đá, hai bên có lan can chạm hình rồng cuộn khúc thế tới cụm thứ 3 đó là chùa chính, gồm nhà bái đường, toà thiêu hương và thượng điện. Hai bên là 2 dãy hành lang. Trong cùng là nhà tổ, giữ lại có lầu trống bên trong treo một cỗ trống lớn, đường kính 1 m và một tấm khánh đồng dài 1,20 m, cao 0,60 m đúc năm 1749, Cảnh Hưng thứ 10 . Tại đây có 153 pho tượng, hầu hết bằng gỗ, một số ít bằng đất nung, đặc biệt quý là tượng Tuyết Sơn, tượng Quan Thế Âm Bồ Tát. Ở giữa thượng điện có một bệ bằng đất nung đỏ hình khối chữ nhật, giống kiểu các bệ đá thời nhà Trần. Trên bệ đá là đài sen, xung quanh trang trí nhiều hình động vật và hoa lá, bón góc có hình chim thần. Trên bệ đặt các tượng Phật tam thế. Trong chùa còn có nhiều bia, hoành phi, câu đối... Riêng có hai câu đối khảm trai, tương truyền có từ thời nhà Hồ (1400-1406).
Trong chùa có tượng đô đốc Đặng Tiến Đông, một tướng lĩnh nhà Tây Sơn, chỉ huy đạo quân đánh vào phía nam Thăng Long. Tượng này được phát hiện vào năm 1972. Ngoài ra còn có tượng Đức Thánh Bối đặt trong khám gỗ gian bên phải. Đây là tượng cốt rút bằng mây đan ngoài bọc vải sơn, tương truyền là tượng bỏ hài cốt của ông.


Gác Chuông

Có rất nhiều khách sạn ở hà nội cho bạn lựa chọn hoặc bạn có thể chọn cho mình một chỗ nghỉ ngơi phù hợp với mình ví dụ như Văn Minh Resort ở Ngọc Giả, Ngọc Hòa, Chương Mỹ, Hà Nội
Khu nghỉ dưỡng Văn Minh Resort
nằm giữa một không gian ngoại ô đậm đà bản sắc văn hoá Đồng bằng bắc
bộ và phảng phất chút hương vị của núi đồi Tây Bắc. Cách trung tâm Hà Nội nửa giờ đi ô tô và gần hai danh thắng Quốc gia là Chùa Trầm và Chùa Trăm Gian, Văn Minh Resort được du khách gần xa biết đến là một khu nghỉ dưỡng với đa dạng các dịch vụ bao gồm:
+ Hệ thống phòng nghỉ tiện nghi, hiện đại và sang trọng.
+ Vườn ẩm thực mang những nét đặc trưng riêng biệt: Nhà hàng Xứ Đoài (đặc sản của núi rừng Tây Bắc), Nhà hàng Cá sông Đà (đặc sản của sông Đà) và Nhà hàng Chúc Sơn (các món ăn dân tộc của địa phương).
+ Bên cạnh đó, Khu nghỉ dưỡng còn đầu tư sân Tennis trên nền đất nện và khu Vật lý trị liệu kết hợp phương pháp bấm huyệt cổ truyền y học phương Đông với các loại thảo dược từ thiên nhiên.
+ Ngoài ra, khu thư giãn, giải trí của Văn Minh Resort đa dạng và hiện đại đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách bao gồm khu Café, Karaoke, khu câu cá và khu vui chơi trẻ em.
+ Hệ thống phòng Hội nghị, hội thảo được trang bị hiện đại.
+ Hoạt động Teambuilding, tổ chức tiệc cưới, tiệc Hội nghị được phục vụ nhiệt tình, chu đáo.
+ Hệ thống phòng nghỉ tiện nghi, hiện đại và sang trọng.
+ Vườn ẩm thực mang những nét đặc trưng riêng biệt: Nhà hàng Xứ Đoài (đặc sản của núi rừng Tây Bắc), Nhà hàng Cá sông Đà (đặc sản của sông Đà) và Nhà hàng Chúc Sơn (các món ăn dân tộc của địa phương).
+ Bên cạnh đó, Khu nghỉ dưỡng còn đầu tư sân Tennis trên nền đất nện và khu Vật lý trị liệu kết hợp phương pháp bấm huyệt cổ truyền y học phương Đông với các loại thảo dược từ thiên nhiên.
+ Ngoài ra, khu thư giãn, giải trí của Văn Minh Resort đa dạng và hiện đại đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách bao gồm khu Café, Karaoke, khu câu cá và khu vui chơi trẻ em.
+ Hệ thống phòng Hội nghị, hội thảo được trang bị hiện đại.
+ Hoạt động Teambuilding, tổ chức tiệc cưới, tiệc Hội nghị được phục vụ nhiệt tình, chu đáo.
Chả cá Lã Vọng
Món chả cá Lã Vọng trứ danh và nhà hàng Chả cá Lã Vọng tại số 14 Chả Cá là nhà hàng Việt Nam duy nhất được chuyên mục du lịch của Hãng tin hàng đầu nước Mỹ MSNBC xếp vị trí thứ 5 trong “10 nơi nên biết trước khi chết”.
Món chả cá Lã Vọng trứ danh và nhà hàng Chả cá Lã Vọng tại số 14 Chả Cá là nhà hàng Việt Nam duy nhất được chuyên mục du lịch của Hãng tin hàng đầu nước Mỹ MSNBC xếp vị trí thứ 5 trong “10 nơi nên biết trước khi chết”.
![]() |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét